Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2009

Những ngọn nến cháy tàn(2)

Hôm nay mình lại đăng tiếp chương 2 của NNNCT, có lẽ mình phải dịch hết tác phẩm này thôi, càng đọc càng thấy hấp dẫn, mặc dù mình đã đọc không dưới một lần câu chuyện tình (bạn, yêu, người, ...) này rồi! hehe...


NHỮNG NGỌN NẾN CHÁY TÀN

Márai Sándor

2.

Nini đã chín mươi mốt tuổi. Bà bước vào phòng, đến bên cạnh Đại tướng trong chốc lát. Nhiều năm về trước, bà chăm bẵm Đại tướng tại chính căn phòng này. Ngày Đại tướng ra đời, bà cũng có mặt. Ngày ấy, bà là một thiếu nữ xinh đẹp, vừa tròn mười sáu tuổi. Bà dáng thấp, nhưng thon chắc. Nini luôn bình thản, như thể bà biết rõ mọi bí mật. Như thể Nini giữ gìn một điều gì đó, – có lẽ là bí mật của thời gian và cuộc sống – trong xương tủy, dòng máu, thân thể bà. Và điều bí mật ấy không thể nói ra cho người khác biết, cũng chẳng thể phiên dịch sang một ngôn ngữ xa lạ khác. Lời nói không diễn tả nổi điều bí mật. Nini là con gái của nhân viên bưu chính trong làng. Năm ấy, cô gái mười sáu tuổi sinh một đứa con, và Nini chẳng bao giờ tiết lộ cho một ai điều người đàn ông nào là cha của đứa bé. Khi bị cha mình đánh đuổi khỏi nhà, cô gái đến và ở lại lâu đài. Toàn bộ tài sản của Nini là một bộ quần áo và một phong bì nhỏ đựng núm tóc đứa con đã chết. Nini đến lâu đài để làm mụ đỡ cho Đại tướng. Và chính cô đã cho Đại tướng bú ngụm sữa đầu tiên từ bầu vú của mình. Hai bầu vú căng đầy sữa mẹ của Nini đã nuôi nấng Đại tướng đến lớn khôn. Bảy mươi năm năm, Nini lặng lẽ sống trong lâu đài. Lúc nào trên gương mặt Nini cũng như phảng phất một nụ cười. Cái tên Nini lan bay từ phòng này sang phòng khác, tựa hồ các gia nhân của lâu đài nhắc nhau một điều gì đó. Họ thủ thỉ với nhau như thế này: “Nini!”. Dường như họ muốn nói: “Thật kỳ lạ là, ở trên thế gian này, còn tồn tại một thứ gì đó, thứ khác với sự ích kỷ. Phải chăng đó là niềm đắm say hay sự kiêu kỳ. Nini…”. Vì người vú nuôi luôn phải có mặt tại những nơi người ta cần đến bà, nên các gia nhân còn lại trong lâu đài thi thoảng mới nhìn thấy Nini. Và vì Nini lúc nào cũng vui tươi và bình thản, nên không bao giờ người ta hỏi Nini là làm thế nào bà lại có thể vô tư như vậy, khi mà người đàn ông yêu thương của mình đã bỏ đi, và đứa con thơ của mình chưa kịp bú sữa mẹ đã bị Tử Thần cướp mất. Nini dùng dòng sữa mẹ ấy của mình để nuôi nấng Đại tướng, bảy mươi năm năm đã trôi qua. Những khi ánh nắng chan hòa tỏa xuống tòa lâu đài, xuống hàng cây hạt dẻ, người ta chợt thấy Nini mỉm cười.

Thời gian thấm thoát trôi qua, rồi giữa chừng, thân mẫu Đại tướng, bà Hầu tước, qua đời. Nini đứng lau vầng trán trắng nhợt, ướt át mồ hôi của tử thi bằng mảnh khăn niệm tẩm nước dấm. Vài năm sau, ngài Hầu tước bị thương vì ngã ngựa, ông vĩnh viễn không thể tự đi lại bằng đôi chân của mình. Người ta dùng cáng đưa Hầu tước trở về lâu đài. Hàng ngày, ông ngắm nhìn khu vườn hạt dẻ, và cứ thế, thêm tiếp năm năm nữa. Và Nini, ngày lại ngày, đều đặn, cô chu đáo chăm sóc ngài Hầu tước. Cô thường đọc truyện tiếng Pháp cho ngài nghe. Cô chỉ đánh vần các mẫu tự vì mình không biết tiếng Pháp. Nini cũng không thạo phát âm, vì thế, cô đọc dần từng chữ cái. Từng chữ một. Nhưng ngài Hầu tước vẫn hiểu tất cả. Rồi ngày cưới của Đại tướng diễn ra. Khi cặp uyên ương trở về sau tuần trăng mật, Nini đón họ dưới vòm cổng lớn của lâu đài. Cô hôn tay vị hôn phu và dâng tặng một bó hoa hồng tươi đẹp. Lúc đấy Nini cũng mỉm cười. Đại tướng thỉnh thoảng nhớ lại cái khoảnh khắc này. Nhiều năm sau, khoảng hai mươi năm, người vợ Đại tướng lâm bệnh và từ trần. Một mình Nini quán xuyến công việc trông nom ngôi mộ và gìn giữ trang phục của người đàn bà bạc mệnh.

Nini không có danh, cũng chẳng có chức ở lâu đài, nhưng mọi người cảm nhận sức mạnh của bà. Chỉ Đại tướng, một cách lơ đễnh, biết là Nini đã hơn chín mươi tuổi rồi. Nhưng không ai trong hai người nhắc đến điều này. Sức mạnh của Nini tỏa khắp lâu đài. Nó len lỏi qua thân thể mọi thành viên sinh sống ở đây, xuyên suốt các bức tường ngàn năm thầm lặng, thẩm thấu từng đồ vật vô tri vô cảm, nó giống như dòng năng lượng huyền diệu, thứ khiến các hình con rối Vitéz János và Tử thần nhảy nhót trên sân khấu của nhà hát múa rối lưu động. Nhiều khi các gia nhân như còn cảm thấy: nếu chẳng may, có ai đó đụng vào ngôi nhà, và nếu cái sức mạnh huyền bí kia của Nini không kết dính các chất cấu trúc không còn mới mẻ gì của lâu đài thành một khối vững chắc, thì toàn bộ lâu đài sẽ sụp đổ trong tức khắc. Sau khi chôn cất chu tất người vợ của mình, Đại tướng ra nước ngoài trong khoảng thời gian một năm. Ngày trở về, ông chuyển vào khu nhà cũ của lâu đài, đến căn phòng mẹ ông sống khi xưa. Còn khu nhà mới của vợ ông trước đây; rồi tòa đại sảnh, với các bộ xa-lông đã bong dần lớp lụa bọc Pháp; cả gian phòng khách, nơi có lò sưởi cùng thư viện; khu cầu thang mà dọc bức tường của nó được treo vài cái đầu lâu sơn dương, dăm ba chiếc sừng hươu, sừng nai, cùng mấy con gà rừng có bộ lông sặc sỡ đã bị moi hết ruột, làm khô và nhồi bông cho căng; gian phòng ăn to lớn có cái cửa sổ, mà từ đó có thể nhìn đến cái thị trấn quanh năm chìm dưới màn khói xám vật vờ trong khu thung lũng phủ đầy sương và xa xa, tới những ngọn núi xanh bạc im lìm cổ tích; ngay cả các căn phòng của vợ và bên cạnh chúng, căn phòng ngủ trước kia của mình; tất cả, Đại tướng bắt gia nhân khóa lại. Ba mươi hai năm, kể từ ngày người vợ qua đời, và hôm ông quay trở lại lâu đài, chỉ có Nini và đám gia nhân ra vào các gian phòng này. Nơi đây, cứ hai tháng một lần, họ làm công việc quét dọn và lau chùi.

– Ngồi xuống đây, Nini! – Đại tướng lên tiếng.

Người vú nuôi ngồi xuống bên cạnh. Nini già đi rõ rệt vào năm cuối cùng. Sau chín mươi tuổi, con người già đi theo một kiểu khác, không như sau năm mươi hay sáu mươi tuổi. Những người già cả không hề tủi thân khi họ nhận ra rằng, thời gian để lại càng ngày càng nhiều nếp nhăn trên gương mặt họ. Gương mặt của Nini màu hồng và mang nhiều nếp nhăn. Chỉ những chất thật thanh tao mới già đi như vậy, những tấm lụa trăm tuổi, mà từng sợi của chúng đã được một gia đình dệt cái sự khéo tay và giấc mơ của mình vào. Năm ngoái, một mắt của Nini bị lên màng. Con mắt này giờ đây trông buồn rầu, như được nhuộm một màu xám nhạt. Nhưng con mắt kia vẫn giữ một màu thật xanh, như màu xanh phi thời gian của đại dương giữa những dãy núi trùng điệp với tiết trời thu tháng Tám. Nini mặc bộ quần áo màu chàm. Bộ quần áo muôn thưở. Cái váy dạ màu xanh thẫm cùng chiếc áo cánh may liền với váy cũng màu xanh thẫm. Như thể bảy mươi năm năm qua, Nini không hề may cho mình một bộ quần áo nào khác nữa.

– Tôi vừa nhận được thư của Konrad – Đại tướng hững hờ giơ lá thư lên. – Nini còn nhớ ông ta không?

– À, thế ạ! Vâng. – Nini khẽ trả lời. Bà nhớ tất cả.

– Konrad đang ở trong thị trấn – Đại tướng hạ giọng nói tiếp với Nini, như thể ông báo cho bà biết một tin quan trọng và bí mật. – Ông ta ở khách sạn Đại bàng Trắng. Và sẽ đến đây vào buổi tối. Tôi đã bảo Kálmán đánh xe đi đón. Konrad sẽ dự bữa cơm tối tại đây.

– Tại đây? Chỗ nào ạ, thưa ông? – Nini bình thản hỏi. Con mắt xanh biếc linh hoạt của bà đảo một vòng quanh căn phòng.

Đã hai thập kỷ nay, họ không tiếp khách trong lâu đài. Thỉnh thoảng, vài nhân vật quan chức của Thị chính thành phố và tỉnh đến viếng thăm Đại tướng. Đôi khi, một số vị khách thuộc giới quý tộc, những thành viên của câu lạc bộ đi săn, cũng nghỉ lại tại lâu đài. Người quản gia tiếp đón họ trong khu nhà săn. Khu nhà săn ở cách không xa tòa lâu đài, được xây lên ngay cạnh cánh rừng già nguyên sinh, nơi thường diễn ra các cuộc đi săn thú rừng của giới quý tộc. Ngày và đêm, dãy hành lang thoáng mát, các phòng ngủ, phòng tắm, gian phòng khách rộng rãi với chiếc bàn chân cừu dài và rộng đầy những món ăn ngon miệng tiếp đón chu đáo các vị khách. Những lúc như thế, người quản gia ngồi ở đầu bàn, ông thay mặt gia chủ đón tiếp đám thợ săn và khách khứa quí tộc. Không ai tự ái, vì mọi người đều biết rằng, chủ nhân lâu đài không muốn xuất hiện. Hàng năm, vào mùa đông, duy nhất một người tìm đến lâu đài là vị linh mục của nhà Thờ thị trấn. Ông ta đến để ghi những chữ cái đầu tiên các tên gọi Gáspár, Menyhért và Boldizsár lên thanh gỗ bắc ngang của cánh cổng ra vào. Từ lâu, khách của lâu đài không một ai khác ngoài ông linh mục này, người đưa linh hồn các chủ nhân đã chết của lâu đài về thế giới bên kia.

– Tại khu bên kia – Đại tướng nói. – Có được không?

– Vâng, được ạ – Nini trả lời. – Khu đấy vừa được quét dọn cách đây một tháng.

– Buổi tối, tám giờ. Có kịp không nhỉ? – Đại tướng chồm người ra phía trước hỏi với giọng hơi vẻ tò mò của trẻ thơ. – Tại đại sảnh ấy. Bây giờ đã mười hai giờ trưa rồi...

– Giữa trưa ạ, – người vú nuôi tiếp lời. – Tôi bảo mọi người ngay bây giờ. Sáu giờ tối sẽ mở cửa thông gió. Sau đó, sẽ cho dọn thức ăn lên bàn. – đôi môi Nini mấp máy không tiếng động, như thể bà đang nhẩm tính cái gì đó. Nini nhẩm tính thời gian và khối lượng công việc. – Vâng, được ạ, thưa ông! – cuối cùng, người vú nuôi nói, giọng bà bình thản và tự tin.

Đại tướng hơi nhoài thân trên của mình ra phía trước, ông nhìn Nini chăm chú. Hai con người này có cùng một cuộc sinh tồn, với cái trào dâng của nhịp sống chậm rãi từ hai cơ thể già nua nhưng rất khỏe mạnh của họ. Họ biết tất cả về nhau, tường tận hơn giữa mẹ và con, giữa chồng và vợ. Khối gắn bó tồn tại giữa hai người khít chặt hơn bất cứ mối quan hệ con người nào khác. Có thể dòng sữa mẹ đã tạo nên điều này. Có thể do Nini là sinh vật đầu tiên trên thế gian này nhìn thấy cái thân thể nhầy nhụa máu của Đại tướng trong khoảnh khắc lọt lòng mẹ. Cũng có thể do bảy mươi năm năm chung sống dưới một mái nhà, hít thở cùng một luồng không khí, ăn uống một thứ lương thực. Tất cả đều chung, từ mùi ẩm mốc của các bức tường cho đến hàng cây hạt dẻ trước cửa sổ, không có tên gọi cho điều này. Họ không là chị em ruột thịt, cũng không là những người tình của nhau. Có một cái gì đấy khác biệt tồn tại giữa hai con người này, và họ mơ hồ mường tượng được nó. Đó là một tình ruột thịt, lớn lao và cô đặc hơn hai bào nhi sinh đôi trong bụng mẹ. Cuộc sống đã quyện lẫn vào nhau ngày và đêm của họ. Họ thông thuộc tâm hồn và thể xác của nhau, kể cả những giấc mơ riêng.

Người vú nuôi lên tiếng:

– Ý ông muốn mọi chuyện diễn ra như ngày xưa?

– Đúng thế – Đại tướng gật đầu. – Tất cả phải như cái lần cuối cùng ấy.

– Vâng, được ạ, thưa ông – Nini nói ngắn gọn.

Bà tiến lại gần Đại tướng, cúi xuống hôn bàn tay đeo nhẫn già nua và nổi đầy gân xanh của ông. Nini khẽ nói:

– Nhưng ông phải hứa là sẽ trấn an được lòng mình!

– Ừ, tất nhiên rồi – Đại tướng nói nhỏ, giọng đầy vẻ chấp thuận.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét