Thứ Năm, 30 tháng 12, 2010

Chữ Nghĩa

Thiên hạ hay nói, Ôn cổ tri tân, tức là Xem cái cũ mà biết cái mới. Chữ là một cái cũ rích từ bao đời nay. Năm hết Tết đến, hôm nay tự dưng mình nổi hứng muốn nói chuyện về "cái cũ rích" ấy, tức là về Chữ! Hehe...

Như ở entry này, mình có nói, ngôn ngữ là "món quà lớn nhất" Thượng Đế dành tặng loài người chúng ta và ngôn ngữ là vô cảm. Về sự vô cảm của ngôn ngữ, thì mình không phải "bàn" thêm mà làm gì, bởi vì bản thân các món quà, trong trường hợp này là ngôn ngữ, chúng là vô cảm. Còn nếu có chăng, là tình cảm của người tặng gửi gắm vào chúng mà thôi, kiểu như khi nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói „Xin đừng làm chữ của tôi đau” ý! Hihihi...

Nhớ ngày xưa, cụ Cao Bá Quát đã từng "tuyên bố" là thế gian có bốn bồ chữ thì cụ giữ hai bồ, ông anh và ông bạn của cụ chiếm một bồ, còn thiên hạ chia nhau một bồ. Haha, cụ Cao quả là kiêu ngạo nhất trời Nam! Nhưng nghe cụ phát biểu như thế, mình vẫn thấy khâm phục cụ, khâm phục... sát đất! Đó là bởi chữ "bồ" trong tuyên bố khá "cao" ngạo này của cụ!

Chúng ta cũng thường nghe nói, khi nhà văn nhà thơ sáng tác, đó là lúc họ "làm bạn với mấy con chữ". Ngày nay, với sự ra đời của công nghệ tin học, và nhất là sự ra đời của blog, ai ai cũng có thể "làm bạn với mấy con chữ" được cả. Hay, nếu "dụng" chữ "bồ" của cụ Cao ở đây, mình có thể nói như thế này: ai ai cũng có thể "làm bồ với chữ" được, hehehe...

Nghe đến đây, chắc chắn có bạn sẽ bảo mình, chữ "bồ" của cụ Quát có nghĩa là cái thúng to, cái hòm to, chứ không phải là "bồ với nghĩa người tình"! Tất nhiên rồi, mình có bảo là cụ Quát "đánh bồ" với chữ đâu! Chẳng qua là mình muốn nói đến cái sự "đa nghĩa đa tình" của con chữ đó thôi! "Chữ Nghĩa" mà lị! Mà... cũng chả biết thế nào mà lần, các "cụ đồ" ngày xưa là nổi tiếng "thâm thúy" lắm đó, thế nhỡ may cụ Quát cố tình dùng chữ "bồ" để "ám chỉ" con chữ là "hai bồ" của cụ thì sao?! Hahaha...

Mình muốn "bàn" về cái câu
„Xin đừng làm chữ của tôi đau” của "Ông Tướng của các nhà văn Việt Nam đương thời" một chút (Không biết là "tướng" Thiệp đã "về hưu" chưa? Dạo này mình không thấy "bóng dáng" của ông đâu cả!). Nếu xét về khoảng thời gian của một ngày mà mình dành cho đủ loại công việc trong đời sống, thì "công việc Chữ Nghĩa" được dành cho nhiều nhất. Mà chỉ những gì ta yêu quí nhất thì ta mới dành cho nhiều nhất, đúng không?! Kiểu như "Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ, Anh dành Đảng phần nhiều, phần cho thơ và phần để em yêu" của cái nhà "ông Lành" ý! Hihihi... Tức là cái nhà "ông Lành" yêu quí cái Đảng của ổng nhiều nhất, thì mình "yêu quí" Chữ Nghĩa của mình cũng... nhiều nhất! Hấc hấc hấc... Chính vì thế, khi nói „Xin đừng làm chữ của tôi đau”, có nghĩa là nhà văn của "Những ngọn gió Hua Tát" muốn ám chỉ cái sự "liên đới" rất "nặng tình nặng nghĩa" giữa ông với chữ nghĩa, ông với con chữ như là "bồ bịch với nhau", ai làm con chữ của ông đau, chính là làm ông đau đấy! Mình nghĩ tiếp như thế này, có "nặng tình nặng nghĩa" với con chữ, mới có thể phát biểu một câu rung động lòng người, đến... tận đáy con tim như thế được! „Xin đừng làm chữ của tôi đau”, XIN ĐỪNG NHÁ THẾ GIAN ƠI!

Quay lại cụ Cao Bá Quát. Cái chữ "bồ" mà cụ "dụng", càng nghĩ mình càng thấy, sao nó "hấp dẫn", nó "quyến rũ" đến thế! Và bây giờ thì các bạn chắc cũng đã đoán ra được là vì sao mình nói "chữ là cái cũ rích"! Và khi "vận dụng" "ôn cổ tri tân", tức "xem cái cũ mà biết cái mới" vào trường hợp của "cái cũ rích là chữ", thì chính là lúc chúng ta làm cái công việc "xem bồ chữ ngày xưa" để biết "bồ chữ ngày nay". Mà "bồ chữ ngày nay", theo mình, chính là cái "blog" đấy. Trên blog của nhà văn Nguyễn Quang Lập mà mình rất mến mộ, có câu "Cày chuyện xưa, bừa chuyện nay" rất hay, mình nghĩ, chắc nhà văn cũng muốn "ám chỉ" cái ý này?! Có thể phát biểu "chệch" đi một câu ngạn ngữ phương Tây như thế này, hãy cho tôi biết blog của anh, tôi sẽ nói anh là người thế nào! Hà hà hà...

Nhớ "ngày xưa", có chị Hoài lập ra cái trang talawas, "quần hào" qui tụ về khá đông. Mình cũng bị cái "tinh thần" của talawas, phải nói là, nó "hớp mất hồn". Có được như vậy, chính là cái sự "talawas nó đã biểu hiện ra được tinh thần Phạm Thị Hoài". Bây giờ mình nói như thế này, chắc cũng chẳng có gì gọi là "ngoa ngôn": talawas là "bồ chữ" của chị Hoài! Thế mới biết những khi talawas bị "bọn tin tặc khốn nạn" đánh sập, chị Hoài đã đau lòng lắm lắm! Chắc chắn như vậy, mình còn đau nữa là!

Thôi, hôm nay "ôn cổ tri tân" chữ nghĩa, cụ thể là "bồ chữ nghĩa", như vậy thôi!

Năm mới kính chúc tất cả các bạn ghé thăm blog talami này của mình một năm mới mọi sự như ý, đầy hạnh phúc, đầy "bồ lộc"!

CHÚC MỪNG NĂM MỚI!

Trương Đức Blog

Thứ Hai, 27 tháng 12, 2010

Thiên thần, Quỉ sứ và Chúng ta... hay Cuộc sống là gì?

Mùa Giáng sinh năm nay để lại trong mình nhiều cảm xúc, phải nói là, trăm ngả bề bộn, ngàn hướng ngổn ngang! Hehe... Tức là ý mình muốn nói, khi gần đến ngày cuối cùng của một năm, "người đời" thường "ngẫm ngợi" xem là một năm vừa rồi của cái "cuộc sống mòn" của mình có được cái "tích sự" gì không, có "mòn" đi thêm chút gì không.

Nếu có ai đó hỏi mình hai sự kiện nổi bật trong năm vừa qua của cuộc sống của mình là gì, thì mình "biểu" một "phát" luôn như thế này: Về đời sống vật chất thì có hai sự kiện nổi bật, đó là chuyến mình đưa vợ và con gái lần đầu tiên về quê hương thân thiết là cái thành phố Quảng Ngãi nhớ thương để ăn Tết cùng với hai cụ thân sinh của mình, và chuyến du lịch đầy phiêu lưu của nhà mình trên đất nước của mì spagetti và là quê hương của Leonardo Da Vinci; Còn về đời sống tinh thần thì cũng có hai sự kiện nổi bật đối với mình, đó là sự "trở lại" vào tháng Hai và "ra đi" vào tháng 11 của trang talawas blog.

Và nếu ai đó hỏi tiếp, vậy thì năm vừa qua được cái "tích sự" gì và "mòn" đi cái gì? Thì mình cũng "giả nhời" ngay đây: Úi giời, chẳng được cái "tích sự" gì, chỉ thấy "mòn" đi khá nhiều, ít ra là cái đế giày và cái... túi tiền, hahaha...!

Mình không có ý gì "mỉa mai" cuộc sống đâu! Chẳng qua mình muốn "đi thẳng" vào "vấn đề" đấy thôi. Có lẽ trong mỗi con người chúng ta, cái câu hỏi này đã được đặt ra không dưới một lần: Cuộc sống là gì? Nhà văn Hungary mà mình yêu thích nhất, Márai Sándor, thì "bảo" rằng: "Csak az élet harc és gyalázat", tiếng Việt "trong sáng ngoài tối" là "Chỉ cuộc sống là cuộc chiến và nỗi khổ hạnh" (trích "Di sản của Eszter"). Thế còn nhà thơ Hungary mà mình yêu thích nhất, Ady Endre, thì "nói" gì về cuộc sống nào? Ờ, mình nhớ ra rồi, Ady một thời có "thốt" lên rằng: "Egyetlen igazság van a földön, s ez az igazság az élet", tiếng Việt "trong sáng ngoài tối" là "Có duy nhất một sự thật trên cõi đời này, và cái sự thật ấy, chính là cuộc sống" (trích "Bí mật của cuộc sống và cái chết").

"Ngẫm ngợi" về cuộc sống, mình không thể không nhắc đến thằng bạn nhậu của mình được. Hóa ra cái "chủ thuyết bộ ba" của nó, cái "trường phái triết học cho rằng cái gì cũng phải có ba" mà nó làm "chủ xị" ý, là xuất phát, không, phải nói là, được "thai nghén" từ cái thời xa xưa khi nó xem bộ phim western Ý "Il buono, il brutto, il cattivo", tiếng Anh: The Good, the Bad and the Ugly, còn được dịch: Người tốt, kẻ xấu và tên vô lại. Trong "bữa nhậu hàn huyên" vừa rồi, thằng bạn nhậu "tâm sự" là từ hồi đó nó đã tâm đắc một điều rằng: cuộc sống là cuộc chiến giữa ba "chàng" Đàng hoàng, Đểu cáng và Đần độn. Về cách dịch "Người Tốt, kẻ Xấu và tên Vô Lại", thì nó bảo với mình là không "chuẩn" lắm, không làm "toát" lên được cái ý nghĩa "thể loại cao bồi" của bộ phim, tức là có "đàng hoàng tử tế", có "đểu cáng xấu xa", có "cowboy" - "thằng bò" - tức là "đần độn ngu si". Và từ cái ý nghĩ cuộc sống là "cuộc chiến của ba chàng Clint Eastwood, Lee Van Cleef và Eli Wallach", mà nó đã "phát triển" thành: cuộc sống là cuộc chiến của Thiên thần, Quỉ sứ và Con người chúng ta, mà trong đó, "vai Đần độn" là của Con người chúng ta. Hahaha..., nghe đến đây mình đã phá lên cười như vậy, bởi vì không thể nhịn cười được với cái ý cho "Con người chúng ta" sắm vai "Đần độn" của nó! Mình đã nói với nó, thằng này "náo" quá đi mất, mày lúc nào cũng chỉ được cái "xiên xẹo". Nó nhìn mình cười cười, rồi buông một câu xanh rờn như thế này: Dù sao thì Quả Đất cũng vẫn quay xung quanh Mặt Trời!

Thằng bạn nhậu sau đó còn nói thêm một cái ý như thế này: Và cái "trớ trêu" của "cuộc chiến tay ba" này, là chàng Đần độn luôn..., nó nói như thế nào nhỉ? À, mình nhớ ra rồi, ..."rút được ngắn hơn"! Để mình giải thích: chả là người Hung có câu thành ngữ: "mindig rövidebbet húz" để chỉ những kẻ luôn bị "thua", bị "thiệt" trong mọi chuyện. Mà quả thực như vậy! Khoan hẵng nói chuyện như thế nào, hay ai là Thiên thần, Quỉ sứ, thì cái "chàng Đần độn" đúng là chỉ có Con người chúng ta "sắm hợp vai" được thôi! Và, "trải qua một cuộc bể dâu" (mình lại trích Kiều rồi, hehe!), "chàng Đần độn" đúng là luôn "thua", luôn phải "ngậm bồ hòn làm ngọt", hay "nói trắng" ra là: luôn phải "ngậm đắng nuốt cay"! Ý mình muốn nói đến cái gọi là "những cuộc kháng chiến thần thánh vĩ đại của dân tộc Việt Nam ta", hahaha! Thì "bọn chúng nó" vưỡn ra rả suốt ngày như thế mà! Đây nhá, chỉ riêng sau cuộc chiến có tên gọi là "Cải cách ruộng đất", chàng Đần độn đã "thua" một keo "kiệt túi", tức là dân lành Việt Nam ta (những người phú nông làm ăn lương thiện như bà Nguyễn Thị Năm không là dân lành thì là gì?!) "chết như ngả rạ", Thiên thần, Quỉ sứ là ai, được gì, không biết, chỉ biết là "bọn chúng nó" đã "lên vành hoa đỏ lên thiên sử vàng", đã cướp được chính quyền để "cưỡi đầu cưỡi cổ" dân ta - chàng Đần độn - cho đến tận bây giờ!

Ờ, mình lại "lan man" sang "chính trị" ở đây vào lúc này làm gì nhỉ? Đang nói về cuộc sống cơ mà, về những điều "cao" hơn cái gọi là "sự nghiệp cách mạng" của "bọn chúng nó" cơ mà! Ừ, thì thôi, mình "quay lại" với cuộc sống vậy, quay lại với "ba chàng" Thiên thần, Quỉ sứ và Con người vậy. Mình nhớ cái câu này của bác TQV "Dưới mặt trời này có biết bao kẻ lưu thân không chốn quay về" trong cái phản hồi của bác ý dưới entry này. Đó là bởi vì thế này: đêm 24 mình đã cùng vợ đến nhà thờ dự lễ kỷ niệm đêm Giáng sinh của Chúa Giê-su, được xem người ta diễn lại cảnh ra đời của Chúa ngày ấy. Nhìn cảnh Đức Chúa Giê-su "lưu thân" xuống "trần gian lắm" này như một Thiên thần tiếp sức với Con người chúng ta trong cuộc chiến với Quỉ sứ, mình mới nghĩ, không biết lúc cất tiếng khóc chào đời, Con người chúng ta có biết là sẽ phải "sắm vai" chàng Đần độn suốt cuộc đời không nhỉ? Chắc là Con người chúng ta đã biết trong tiềm thức, nên mới... "khóc o oe chào đời" chứ! Hehe...

Ừ, nhưng tại sao lại có lại có những kẻ cam tâm đi "bán linh hồn cho Quỉ sứ" để "làm hại" dân lành như "bọn chúng nó"?

Chủ Nhật, 26 tháng 12, 2010

Bạn, Ta và Đời

Nhân cái bài của thằng bạn nhậu (mà mình được gặp lại hai bác PTV và LHM trên blog này) nói về "bộ ba" của mọi sự trên đời, mình mới suy nghĩ vẩn vơ về cái Tình cảm như thế này:

Xét cho cùng, đúng là Tình cảm cũng không "thoát" khỏi cái "quy luật bộ ba", tức là cũng có ba thứ: tình yêu, tình thương và tình bạn. Và, tình cảm của một đời người, chỉ "hoàn hảo" khi cả ba thứ tình cảm này được "toại nguyện". Có nghĩa là, con người ta sống ở trên đời, đều mong muốn chia sẻ tình cảm, và tất nhiên, mong muốn được đáp ứng tình cảm.

Tình cảm xuất phát từ con tim. Người đời thường nói thế. Cũng có thể! Mình chợt nhớ mấy câu thơ này của cái nhà/bí thơ "ông Lành":

Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu

Trái tim lầm chỗ để trên đầu

Nỏ thần vô ý trao tay giặc

Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu...

Nhắc lại mấy câu thơ của "ông Lành", không phải mình muốn "ca ngợi" gì cái nhà ông ấy, mà chẳng qua, mình muốn nói về "cái vị trí" của con tim trong một con người, cụ thể ra, trong một đời người là như thế nào. Như mình nói ở trên, tình cảm có ba thứ: tình yêu, tình thương và tình bạn. Và nhiều người Việt Nam chúng ta, có vẻ như chỉ biết có tình yêu và tình thương, hay nói một cách khác là, chúng ta quan niệm rằng: tình bạn chỉ là thứ yếu trong cuộc đời. Mình nghĩ quan niệm tình bạn không "bằng" tình yêu và tình thương, là một sự sai lầm nghiêm trọng. "Trải qua một cuộc bể dâu", hehe, mình phải trích Kiều một tí chứ, thì mình "nghiệm" ra được một điều như thế này: trong các loại tình cảm, tình bạn là thứ đáng và cần phải "trân trọng" bậc nhất trong cuộc sống. Tình yêu vĩ đại, hay tình thương vĩ đại, chúng ta được nghe nói tới "hàng ngày", nhưng tình bạn vĩ đại, thì quả thực: hiếm! Hiếm như thế nào nhỉ? À, mình nhớ ra rồi, như người Hung thường nói, hiếm như "quạ trắng", hehe...

Và chính bởi vì hiếm, nên tình bạn là quí giá! Dĩ nhiên, mình nói tình bạn ở đây, là không phải cái tình bạn "hết cơm hết rượu hết ông tôi" Nguyễn Bỉnh Khiêm "mỉa mai" trong những tứ thơ bất hủ của cụ, mà là "tình bạn đích thực", cái tình bạn mà có "hết cơm hết rượu", hay "cạn tiền cạn bạc", cũng không "hết ông tôi" được! Có thể nói, nếu ai có được một "tình bạn đích thực", thì người ấy hạnh phúc nhất trần đời. Trong lịch sử loài người, chúng ta hiếm được chứng kiến "tình bạn đích thực" (bởi vì tình bạn hiếm mà lị!). Thường thì văn chương thơ ca hay phim ảnh chỉ nói về tình yêu, tình thương, hiếm khi về tình bạn. Có lẽ bởi vì, tình bạn "xuất hiện và hình thành" trong cuộc sống của một người, có vẻ "khó khăn" hơn những thứ tình cảm còn lại! Có thể giải thích điều này, theo mình, như thế này: đó là bởi vì, khi đến với tình bạn, con người chúng ta không đặt trái tim mình vào đúng vị trí của nó. Trái tim, khi ấy, phải đặt... lên đầu, tức là phải đặt con tim vào bộ óc, vào cái gọi là "lí trí" của chúng ta. Tình cảm lúc đó - tình bạn đích thực -, sẽ là thứ "hợp chất" của tâm hồn và lí trí, sẽ "ra đời" và "tồn tại" mãi mãi với chúng ta.

Những thứ tình cảm còn lại, như là tình yêu, tình thương, tình yêu nghệ thuật, tình "yêu tổ quốc, yêu đồng bào", yêu CNXH, yêu Đảng, v.v... chỉ "ra đời và tồn tại" trong một khoảng thời gian nhất định, rồi... mất đi. Đó là bởi vì, như các nhà phân tâm học thường nói, chúng được xuất phát từ một "con tim mù quáng". Mà quả thực, đúng là vậy! Chúng ta thường nghe "tình yêu mù quáng", chứ không bao giờ "tình bạn mù quáng" cả. "Con tim mù quáng" là con tim thiếu "sự hiện diện" của lí trí, khi ấy, con tim chỉ có thể "cho ra đời" một thứ tình cảm "mù quáng", hay "nửa chừng" mà thôi. Mà những gì "mù quáng", hay "nửa chừng", sẽ chẳng thể "bền vững" được! Đấy là mình chưa kể những trường hợp con tim bị "chia ba xẻ bẩy" như trường hợp của cái nhà/bí thơ "ông Lành" nhắc ở trên. Ý mình muốn nói đến cái bài thơ có mấy câu này của ông ta:

"Mà nói vậy: "Trái tim anh đó

Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ, và phần để em yêu..."

Giả sử cứ cho là con tim của "ông Lành" đã được đặt đúng chỗ, không ở trên đầu như trái tim của Mỵ Châu đi, thì nó đã bị "lầm lỡ chia ba phần tươi đỏ". Mình không muốn nêu cái sự "lầm lỡ chia trái tim ba phần tươi đỏ" của "ông Lành" ra đây mà làm gì. Điều này thì nhiều người trong chúng ta chắc cũng "thấu hiểu" rồi. Mình chỉ muốn nêu cái "ý nghĩa cao cả" của cái vị trí và sự toàn vẹn của con tim Mỵ Châu: Trái tim Mỵ Châu đã được "đặt đúng chỗ" và "trao gọn" cho Trọng Thủy! Gì thì gì, chứ thứ tình cảm xuất phát từ "trái tim lầm chỗ để trên đầu" - tình yêu của Mỵ Châu hiến dâng cho Trọng Thủy -, là cao cả, trọn vẹn và đời đời. Còn thứ tình yêu mà "ông Lành" "dành riêng cho Đảng phần nhiều", cuối cùng vẫn "lộ rõ" là thứ tình cảm "phù phiếm giả dối", hay nói một cách khách quan là, "cơ hội chủ nghĩa" (trong chữ "cơ hội", mình đã gửi gắm cái ý "một khoảng thời gian nhất định" rồi đó, tức là "không trường tồn", hehe...). Theo mình là như vậy!

Quay trở lại tình bạn. Mình nhớ đến cuốn tiểu thuyết "Những ngọn nến cháy tàn" của Márai Sándor. Có thể nói đây là cuốn sách viết về tình bạn hay nhất mà mình được đọc. Márai coi tình bạn là cao hơn tất cả. Nền tảng của tình cảm con người, chính là tình bạn. Chỉ có tình bạn mới "nâng" con người chúng ta đến những "giá trị đích thực" của cuộc sống, đến "sự thật cốt lõi" của cuộc đời. Tình bạn như một thứ gì đấy thiêng liêng, kỳ diệu hơn tất cả mọi thứ tôn giáo. Vì một tình bạn đích thực, con người chúng ta hiến dâng tất cả. Hạnh phúc hoàn hảo nhất, là có được một người bạn đích thực. Chả phải thế mà, thay vì nói "vợ", những người đàn ông chúng ta hay "buột mồm": "Người bạn đời". Dĩ nhiên, chỉ "buột mồm" những khi "nói thật" và "cô ấy" đã thể hiện đúng là một người bạn chân thành với chúng ta, hahaha...

Nói dông nói dài, chẳng qua mình muốn nói lên cái "sự quí giá" của tình bạn. Giả sử phải chọn lấy ba thứ làm hành trang để đến một hành tinh khác, mình sẽ chọn ba thứ ấy là: tuổi trẻ, sức khỏe và tình bạn đích thực. Con người chúng ta sống trên cái hành tinh là Trái Đất này, có một "lầm lỡ" to lớn là "phung phí" tuổi trẻ, "coi thường" sức khỏe, và "sao nhãng" tình bạn. Mình cũng vậy, đã phung phí tuổi trẻ vào những việc "không đâu", rồi "coi thường" sức khỏe để bây giờ nhiều khi "ốm lên ốm xuống", và cuối cùng là "sao nhãng" với bạn bè, bạn rủ đi nhậu nhưng lại ra vẻ "bận này bận nọ" không đi, hehe... Vậy nên, mình rất cảm động khi được gặp lại "những người bạn tâm hồn" là các bác PTV, LHM, TQV.

Ôi, những người bạn của ta!

Thứ Tư, 22 tháng 12, 2010

Tình cảm, hạnh phúc và sức khỏe

Đọc cái entry "Tuổi trẻ, sắc đẹp và tài năng" trên blog này của mình, thằng bạn nhậu mới gọi điện bảo như thế này: Ờ, kể ra trong ba thứ mày nêu: tuổi trẻ, sắc đẹp và tài năng, thì có thể cho rằng tuổi trẻ là quí nhất đấy, nhưng có một thứ còn quí hơn tuổi trẻ, mà mày là một trong những thằng chúa coi thường, đó là sức khỏe. Mình đã bị "sững sờ" bởi nhận định này của nó, im re không nói được một lời nào. Phải một phút sau, mình mới ậm ờ trong điện thoại ra vẻ đồng tình là: ờ, ờ ,thì ai chẳng biết thế, trẻ trung nhưng ốm yếu thì cũng... vất, mày nói đúng, vậy mà tao không nghĩ ra, à, à, mày viết cái gì đó cho tao đăng lên blog của tao đi, mình tao viết mãi cũng nhàm, mấy cả giờ "đề không về nên tài đã cạn" rồi, chẳng còn biết viết cái gì nữa. Thằng bạn nhậu phá lên cười hậc hậc trong máy, tưởng gì, chứ bài để đăng blog talami nhà mày, có ngay, có ngay! Thế là hôm nay, nó gửi cho mình bài viết này của nó, mình đăng ngay lên đây để "hãnh diện" với các bạn ghé thăm nhà mình, hehe...

Gạch đầu dòng thứ nhất: Ở trên đời này, mọi sự gì cũng thế, muốn đủ bộ, đều phải có ba, tỉ như từ cái nhỏ nhất là ba hòn gạch kê nồi của cái bếp, qua cái "vừa vừa" là niềm mơ ước của một đời người là có đủ ba điều "phúc-lộc-thọ", đến cái cao siêu nhất là Đấng Tạo Hóa cũng là ba: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh! Hoặc như bản thân con người chúng ta, cái "thực thể" là "ta" cũng là do ba thứ: thân thể, trí tuệ và linh hồn gộp lại mà nên. Trong những ngôn ngữ có "giống", cũng phải có ba: giống đực, giống cái và giống trung. Đấy là chưa kể, trong xã hội "thời thượng" hiện nay của loài người, cũng "lộ" ra là: có ba "giống", đàn bà, đàn ông và đàn đồng tính!

Gạch đầu dòng thứ hai: Kiến thức sơ đẳng của hình học là ba điểm tạo nên một mặt phẳng, hoặc tỉ như không gian có ba chiều, thì ai cũng biết. Nhưng ít ai để ý rằng, một đoạn thẳng cũng do ba "cái" tạo nên, đó là hai điểm và "cái vạch vô hình" nối hai điểm đó lại với nhau. Và điều cần nói ở đây, là cái "vô hình thứ ba" ấy!

Gạch đầu dòng thứ ba: Sống ở trên đời, xét cho cùng, con người ta chẳng làm gì khác ngoài việc
suốt đời "phấn đấu" để làm nô lệ ba thứ: tiền tài, danh vọng và quyền lực. Ngay bản thân các "nghệ sĩ", phải hiểu là: cả các nhà văn nhà thơ nữa, cũng thế! Họ sáng tác, hoặc vì tiền tài, hoặc vì quyền lực, nếu không vì hai cái này, cũng vì cái danh vọng hão huyền! Và ít ai nhận ra rằng, cả ba thứ, tiền tài, danh vọng và quyền lực, đều là những thứ "vô hình". Nói tóm lại, con người ta sống vì những cái "vô hình thứ ba"!

Gạch đầu dòng thứ tư: Triết học là bộ môn, có thể nói, chuyên đem những khái niệm song đôi với nhau ra để "mổ xẻ". Như là Thiện - Ác, Sáng - Tối, Ngu - Minh, Mạnh - Yếu, Trên - Dưới, Sinh - Tử, v.v... Tức là có vẻ là như vậy, nhưng ít ai để ý rằng, có một "thực thể vô hình thứ ba" luôn tồn tại giữa các "khái niệm song đôi" ấy, đó là Con Người. Khi Goethe nêu ra cái sự "lý thuyết là màu xám, chỉ thực tiễn là cây đời xanh tươi", thì ông đã "quên" mất cái "vô hình thứ ba" là Con Người chúng ta! Nếu không có Con Người "chăm sóc", thì cái "thực tiễn là cây đời" của Goethe, có "xanh tươi" vào bẫu!

Gạch đầu dòng thứ năm: Mọi sự ở trên đời này, nếu không có cái "thực thể vô hình thứ ba" là Con Người chúng ta, thì đều trở thành "vô nghĩa". Con Người chúng ta, như một cái gì đấy là "trung tâm vũ trụ", giữa Trời và Đất. Thế giới xung quanh tồn tại bởi Con Người chúng ta tồn tại. Và Con Người chúng ta tồn tại, như Descartes đã nói, là do Con Người chúng ta "tư duy"! Mà muốn tư duy được, kiểu gì cũng cần phải có... sức khỏe! Thượng Đế là Đấng Toàn Năng đấy, nhưng nếu Ngài "ốm yếu liệt giường", thì cùng lắm, cũng chỉ "ho he" được vài tiếng "dạy đời" với Con Người chúng ta mà thôi!

Gạch đầu dòng thứ sáu: Sức khỏe của Con Người chúng ta là quí nhất, chứ không phải tuổi trẻ! Dĩ nhiên, là quí nhất, nên sức khỏe quí hơn độc lập tự do. Nói "không có gì quí hơn độc lập tự do", là ngụy biện, là còn "non nớt" trong "ní nuận". Chỉ những kẻ còn đang "ngụp lặn" trong "bể u mê" mới "phát biểu" như vậy!

Gạch đầu dòng thứ bảy: Có sức khỏe, con người mới tìm đến được tình cảm và hạnh phúc. Tình cảm (tình yêu và tình thương) là thứ quan trọng bậc nhất, không thể thiếu cho một đời người. Hạnh phúc ở đây, phải hiểu là sự bình yên của nội tâm. Thế cho nên, món quà lớn nhất cho Con Người chúng ta, chính là Sức Khỏe! Có sức khỏe là có tất cả! Xin kính tặng mọi sinh linh trên cõi trần gian lắm này một SỨC KHỎE DỒI DÀO!

Thứ Ba, 21 tháng 12, 2010

Món quà lớn nhất

Trong bài này, mình có nói: ngôn ngữ như "món quà lớn nhất" mà Thượng Đế đã dành tặng cho con người chúng ta. Hôm nay, đọc lại một bài viết duy nhất của mình trên talawas bộ cũ, bài "Chữ ơi, đừng làm tôi đau..., hay sự vô cảm của ngôn ngữ", mà mình cảm thấy sao mình nói đúng thế không biết, kiểu như "nhân nói như thánh nói" ý, hihihi...!

Tức là ý mình muốn nói, ngôn ngữ, cụ thể là những con chữ, quả đúng là "món quà lớn nhất của Thượng Đế dành cho loài người chúng ta". Để có thể mục kích được "bức tranh toàn cảnh" về cái ý này của mình, dưới đây mình xin ghi lại "toàn văn" cái bài viết nói trên:

Trương Văn
„Chữ ơi, đừng làm tôi đau...” hay sự vô cảm của ngôn ngữ

Theo tôi, một nhà văn thực thụ chỉ viết khi họ đau; nỗi đau được gửi gắm qua chữ nghĩa khiến người đọc đau theo. Mục đích chỉ đơn giản như vậy. Giải Nobel văn chương hình như chỉ dành cho những người biết làm đau thực thụ, không những vài người đọc đau mà dường như cả nhân loại. Tôi cũng có ít chữ trong đầu, nên thi thoảng cảm thấy đau, mặc dù không biết chính xác mình đau hay chữ đau [1] . Suy đi ngẫm lại, chữ nghĩa của người khác rất dễ làm tôi đau. Cụ Nguyễn Du ngày xưa, đã từng bị chữ của Đoạn trường Tân Thanh làm cho nhức nhối, nên mới viết được Truyện Kiều bất hủ. "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"! talawas có một loạt bài đã làm tôi đau, trong số đó có bài viết của nhà văn Kiệt Tấn. Tôi đã bị đau lây sau ông. Nhưng tôi dám quả quyết rằng cái đau của tôi không so sánh được với cái đau của nhà văn. Vì độ nhạy cảm của tôi chắc chắn không thể bằng của Kiệt Tấn, nên có cố gắng hết sức mình cũng không thể viết ra được một bài như "Sục cặc trước bàn thờ" của ông. Tiếp đó, tôi đọc một loạt bài chỉ trích cũng có, bênh vực cũng có xung quanh bài viết này. Càng đọc càng thấy đau. Đau đến nỗi không chịu được nữa. Đành phải ngồi viết những dòng này gửi talawas. Cũng chỉ mong nỗi đau thuyên giảm chứ không hề có ý định làm ai đau. Trải qua một cuộc bể dâu, ngoài những điều trông thấy mà đau đớn lòng ra, tôi còn nghiệm một điều: mỗi nhân tài của Việt Nam đều để lại cho đời một chữ gì đấy. Nguyễn Du ru đời nỗi đau. Nguyễn Tuân luân trầm cái sợ. Văn Cao cạo phím piano tiếng ca. Vũ Trọng Phụng tung hứng làm đĩ. Nam Cao cào rách mặt chí phèo, ấy chết, chữ phèo. Trịnh Công Sơn vờn đàn tìm hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi... Tóm lại, mỗi nhân tài đều dồn cảm xúc của mình vào một chữ để lại cho đời! Kiệt Tấn với "Sục cặc trước bàn thờ" chẳng hề mang tính "dâm thư", "ô uế". Thậm chí, nếu ông viết "Sục cặc rồi phóng tinh vào bàn thờ" thì cũng không có gì gọi là "xú uế" cả. Ở đây, vấn đề là tình cảm của người viết và người đọc. Trong trường hợp này ông/bà Hà Minh cùng một số người viết thư cho Tienve "chê trách" nhà văn Phan Nhiên Hạo có lẽ khó đi „làm cách mạng" được. Nỗi nào đã mất bình tĩnh nhanh đến thế! Khi đọc Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên, tôi rất thích một câu. Đó là câu "dục tốc bất đạt", chắc của người Tàu. Mà người Tàu nổi tiếng về sự thâm thuý. Những người chiến sĩ cách mạng chân chính ngày xưa nếu cứ "dục tốc" ào ào thì có lẽ hỏng hết. Trong tôi hiện lên hình ảnh những người nữ du kích bị giặc tra tấn (nếu những hình ảnh này đã xảy ra trong thực tế - sau "vụ Lê Văn Tám” tôi đâm ra nghi ngờ tất cả, có thể tôi muộn màng chăng!) một cách hết sức dã man là dùng que sắt chọc vào âm hộ (tôi không muốn viết lồn, vì biết rằng điều này sẽ làm một vài độc giả đau) của họ, hòng làm những người phụ nữ này quá đau đớn về thể xác mà khai báo, nhưng họ không khai báo. Tôi dùng hình ảnh này để giải thích tại sao những người tôi vừa nêu trên khó đi „làm cách mạng”. Những cực hình thể xác nhiều khi phản tác dụng. Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học nên không dám bàn đến chuyện ngữ nghĩa, mặc dù rất muốn góp đôi ba câu trong dịp tranh luận rất rôm rả về từ "vi tính" trên talawas vừa qua. Chỉ người đọc mới gán tình cảm cho ngôn ngữ. Bản thân tác giả cũng gán tình cảm vào câu chữ của mình. Điều trớ trêu là người đọc ít khi cảm nhận hết được tình cảm tác giả gửi gắm. Ví dụ, vì không là đảng viên cộng sản, nên khi nhìn thấy khẩu hiệu: "Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm" trong người tôi chẳng „dấy” lên một tình cảm gì đặc biệt. Thế nhưng một đảng viên cộng sản thực thụ khi đọc khẩu hiệu này sẽ cảm động, sẽ cảm thấy thiêng liêng và đầy ý thức trách nhiệm. Cũng như kẻ chống cộng sản sẽ cảm thấy căm ghét khi bắt gặp khẩu hiệu này. talawas phải chăng cũng là một tấm biển, nơi treo nhiều loại khẩu hiệu khác nhau. Tại sao vì nội dung của nhiều loại khẩu hiệu lại đi chê trách kẻ giăng tấm biển? Nếu không có tấm biển, biết đọc khẩu hiệu từ đâu? Phải chăng, nỗi đau chỉ nên tồn tại trong mỗi cá nhân, chớ nên chia sẻ? Bởi đời rất nhiều nỗi đau, nỗi đau nào cũng lớn. Đấy là chưa kể nỗi đau của người đôi khi lại là hạnh phúc của ta. Nỗi nhục mất nước của kẻ này biết đâu lại là niềm vinh quang chiến thắng của kẻ khác. Tôi đánh giá cao hành động "xả thân" treo biển của talawas giữa thời đại hiện hữu của mọi loại khẩu hiệu.
Hình như đối với tôi những nỗi đau mang nhiều ý nghĩa hơn cả. Một người không có những nỗi đau thì còn gì để nói?
Và mong rằng: "Chữ ơi, đừng làm ta đau..."

© 2004 talawas

[1]Mượn ý từ câu văn của Nguyễn Huy Thiệp: „Xin đừng làm chữ của tôi đau”

Bàn luận về ngôn ngữ, thì phải công nhận một điều là sẽ... "hết ngày", tức là một cái sự "vô cùng tận"! Thì loài người chúng ta chẳng phải đã, đang, sẽ và mãi mãi vẫn "bàn", vẫn "luận" về ngôn ngữ đấy thôi! Hết thu này sang thu khác, hết thế kỷ này sang thế kỷ khác, không bao giờ ngừng, cho đến ngày... tận thế! À, mình chợt nhớ ra, là phải nói theo ngôn ngữ điện ảnh như thế này: bàn cho đến lúc "hết phim", hahaha...!

Người Hung có một câu châm ngôn như thế này: mỗi cuốn sách là một hạt giống gieo xuống cho đời. Nếu chúng ta nhìn theo khía cạnh "chơi chữ" trong tiếng Anh: The present is present, hiện tại là món quà, thì có thể hiểu câu châm ngôn của người Hung như thế này: Cuốn sách như một món quà cho đời, Thượng Đế đã cho chúng ta một món quà lớn là ngôn ngữ, mà cụ thể là những con chữ, thì cả cuốn sách - "tổ hợp" của các con chữ sắp xếp theo một "thứ tự" nào đấy - chính là một món quà lớn của tác giả muốn dành tặng chúng ta, bất chấp chúng ta có muốn nhận hay không!

Riêng mình thì mình sẽ nhận ngay "tắp lự" mọi món quà dành tặng cho mình, nhất là những "món quà chữ nghĩa"! Nhưng có vẻ như thời nay, con người chúng ta không còn bị "mê hoặc" bởi những con chữ nữa, mà phần lớn, con người ta bị "chinh phục" bởi đồng tiền hay quyền lực!

Cách đây hơn hai nghìn năm, Chúa Giê-su, khi Người chết trên cây Thánh giá thay cho loài người, dường như Người "đứng cao hơn" "đồng tiền" và "quyền lực"! Chắc chắn thế! A-men!

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010

Tuổi trẻ, sắc đẹp và tài năng

Người đời hay nói, tuổi trẻ và sắc đẹp là hai thứ sẽ trôi đi, chỉ có tài năng là ở lại. Mình suy nghĩ nhiều về điều này. Thời còn "trai tráng", hehe, mình đúng là chỉ để ý đến các cô gái "trẻ và đẹp", và luôn nghĩ rằng, các cô gái ấy, là mãi mãi xinh tươi, là bão táp thời gian không bao giờ có thể "vùi dập" được họ, hehe... Vậy mà, đến bây giờ, ở cái tuổi "ngoại tứ tuần" này, mình không thể "cưỡng lại" nổi chân lý, phải đối mặt với một sự thực "phũ phàng" là: các cô gái xinh tươi thưở ấy, đều đã bị "lớp bụi thời gian" phủ lên gương mặt những dấu ấn cuộc đời, càng ngày càng nhiều, càng ngày càng rõ nét.

Nhiều lúc mình tự hỏi, điều quí nhất của một đời người là gì? Tuổi trẻ, sắc đẹp hay tài năng? Tuổi trẻ có lẽ không được coi trọng trong cuộc đời như hai thứ kia, bởi vì con người chúng ta thường "phung phí", không quan tâm đúng mức đến nó, để nó trôi đi một cách "vô vị", và đến khi nhận ra sự "vô vị" ấy, thì đã muộn, đã "hết phim"! Mình nói đến "hết phim", bởi vì, mình nghe thiên hạ nói, hình như trước khoảnh khắc gặp Thần Chết, cuốn phim toàn bộ cuộc đời được chiếu nhanh trước mắt chúng ta: từ lúc sinh ra, giao cấu hay không giao cấu, cho đến lúc cái lưỡi hái lạnh ngắt của Tử Thần khía lên trán chúng ta dòng chữ "конец фильмa", hahaha...! Và, có một sự "trớ trêu" là, "cuốn phim cuộc đời" phần lớn, thường "quay" những cảnh của thời "tuổi trẻ". Nhưng thế thì, tuổi trẻ là quí nhất á? Vâng, theo mình, trong ba thứ kể trên - tuổi trẻ, sắc đẹp và tài năng -, tuổi trẻ là quí nhất, quí hơn cả độc lập tự do cơ, hơhơhơ!

Về "tuổi trẻ" và "tài năng", một người bạn của mình có nói một cái ý như thế này: thời còn trẻ, con người chúng ta không biết nâng niu, trân trọng "tuổi trẻ", bởi vì khi ấy vẫn còn ngây thơ, đặc tính của tuổi trẻ là ngây thơ mà lị, nếu chúng ta biết làm cho "tuổi trẻ" của chúng ta không trở thành "vô vị", thì chúng ta không là "còn trẻ" nữa, và những ai biết giữ gìn tuổi trẻ, biết không để những năm tháng thanh xuân của mình thành "sống hoài", "sống phí", họ là những kẻ "tài năng", tức là "tài năng" quí hơn "tuổi trẻ"!

Tuổi trẻ, sắc đẹp và tài năng, ba "cái" chụm lại thành cuộc đời chúng ta! Có vẻ như đây là ba thứ "cốt lõi" của cuộc sống ấy nhỉ?! Bài viết trước của mình lại nói đúng về cái "cốt lõi" của cuộc sống là "giao cấu hay không giao cấu" (hay nói cho có hơi hướng thi ca như Xuân Diệu, chết hay không chết ở trong lòng một ít, hihi...). Tức là mình muốn nói đến cái thứ làm "điêu đứng" bao trái tim nghệ sĩ trên thế gian này. Đó là sắc đẹp. Dĩ nhiên là mình nói đến cái "sắc đẹp" chung của mọi sự trên đời. Từ cái sắc đẹp của Phái Yếu, đến cái "sắc đẹp" của một nét vẽ, hay một tứ thơ, một nốt nhạc, hoặc chỉ "bình dị" và "mỏng manh": sắc đẹp của một "làn hương xưa" nào đấy, v.v... và v.v...

Tuổi trẻ tàn phai. Sắc đẹp cũng tàn phai. Tài năng có tàn phai không? Theo mình thì không! Nó chỉ "chuyển dạng" từ "trạng thái" này sang "trạng thái" khác. Thời gian trôi, tuổi trẻ và sắc đẹp có thể không để lại "dấu vết" gì nữa, nhưng tài năng thì vẫn "nắm bắt" được, vẫn còn "sờ sờ" trước mắt. Tài năng dường như "không có tuổi". Đấy là chưa kể tài năng được "đúc kết" trong các tác phẩm để đời. Nhưng như thế, có vẻ như mình "lạc" qua khái niệm "giá trị" rồi thì phải? Không, tài năng không phải là giá trị, tài năng như một thứ gì đấy "vô tận", kiểu như năng lượng ý, nó không mất đi, chỉ "chuyển" từ "dạng" này sang "dạng" khác! Hehe...

Sẽ có bạn bảo mình "ní nuận" như thế thì "vô cùng"?! Cũng có thể, nhưng bạn ấy ơi, chúng ta viết blog hàng ngày, chính là một kiểu "ní nuận vô cùng tận" đấy! Và tư duy về cuộc đời của mỗi chúng ta, nhìn về một "khía cạnh" nào đấy, là một chuỗi "ní nuận vô cùng tận"! Giá mà tuổi trẻ, sắc đẹp và tài năng của chúng ta, cũng... "vô cùng tận" như thế nhỉ?

Thứ Bảy, 18 tháng 12, 2010

Sống và Chết

Mấy hôm nay mình tự dưng thích đọc lại những bài dịch của mình gửi cho talawas bộ cũ. Trong một entry trước, mình "chớp" được cái ý như thế này: "Chúng ta là những sinh vật, ra đời, giao cấu hoặc không giao cấu, rồi chết."

Bây giờ mình phải "thú thực" là lần đầu tiên khi đọc cái bài phỏng vấn này, mình đã "sững sờ" mất mấy ngày. "Sững sờ" vì những quan niệm rất đúng và sâu sắc về cuộc sống của ông cố đạo diễn phim người Anh, Anthony Minghella. Từ trước đến giờ, mình thường nghĩ sự sống và cái chết khác nhau hoàn toàn, giữa chúng có một khoảng cách khá lớn, ý nghĩa của chúng đối với loài người chúng ta cũng khác nhau... "một trời một vực", v.v... và v.v... Nhưng sau khi đọc được những cái ý "đích thực" về cuộc sống và cái chết này của A.M, mình mới "tỉnh ngộ" ra rằng, sự sống và cái chết chỉ là một, duy nhất một!

Người Hungary có câu chuyện cười như thế này vào dịp Noel: Những con gà Tây thường hỏi nhau: Có chăng cuộc sống sau Noel? Hehe... Chả là vào dịp lễ Noel, người Hung có phong tục "mổ" gà Tây để nấu các món ăn chính cho ngày lễ. Thành ra "lũ" gà Tây rất chi là "xáo xác" mỗi khi chúng "thấy" thời gian của năm cạn dần, tức là ngày 24/12 đang đến gần! Haha... Đối với chúng, cuộc sống chấm dứt ở nhát dao "xin tí tiết" vào trưa ngày 24, sau đấy chúng có "sự sống đời đời" trên thiên đàng, hàhà...

Chuyện cười thôi, nhưng "qua đó" mình chợt nảy ý nghĩ, "quan niệm" về cuộc sống của lũ gà Tây cũng "độc đáo" đấy chứ! Cuộc sống của chúng bắt đầu từ lúc đạp vỡ vỏ trứng bước ra với gà mẹ, xong rồi "chết dần chết mòn" cho đến lúc "chết hẳn" trên bàn ăn vào đêm Noel, ngày Chúa giáng sinh. Một cái chết này bắt đầu cho một sự sống khác! Hay nói một cách đầy "tính triết học": cuộc sống chính là cái chết chậm! Phát biểu câu này, có vẻ như mình đang "đạo văn" của bà chị "Nhung trong sáng" ấy nhỉ?! Vâng, đúng là chị Nhung đã viết như thế trong một sáng tác của chị ấy. Mình tâm đắc và ghi ra đây, để gọi là, thỉnh thoảng cũng phải "học hỏi" cái gì đấy của bà chị văn chương của mình chứ! hehe...

Cái ý "Chúng ta là những sinh vật, ra đời, giao cấu hoặc không giao cấu, rồi chết.", theo mình, như một "chân lý" ở đời. Hay nói "nôm na" theo cái thuyết "mọi sự là nửa chừng" của mình là, sự tồn tại của con người là duy nhất một quá trình, sự sống và cái chết chỉ là những "trạng thái nửa chừng" của quá trình duy nhất đó! Sống rồi chết, chết rồi sống, cứ thế luân hồi tồn tại và không thể phân biệt được khi nào là "sống", khi nào là "chết"! Hoặc có thể dùng "thuyết tương đối" của nhà bác học Albert Einstein để giải thích cái sự tồn tại của con người như thế này: chúng ta "sống" hay "chết", chỉ là "tương đối" thôi, kiểu như "một phút sống bên bồ nhí là chục năm chết với bà xã", "lăn tăn" mà làm gì cho nhọc xác! Đấy là nhìn nhận theo "khoa học", còn theo "văn chương", chúng ta có thể hình dung "cái sự chỉ là duy nhất một" của sự sống và cái chết qua mấy câu thơ này của Xuân Diệu:

"Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu .
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu ;
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết
..."

Hehe, chúng ta là những sinh vật, ra đời, yêu hoặc không yêu, nếu có yêu thì trước tiên, cũng "là chết ở trong lòng một ít", và sau đó, rồi chết!

Mà đúng thật, có những cái "sống" như "đã chết rồi" từ lâu. Đây nhá, mình xin kể câu chuyện này: ông chú mình có thằng con "mất dạy", tức là thằng em họ mình, nó, về mặt "con người" thì cũng "tử tế con nhà lành" thôi, nhưng khổ cái, mắc một cái tật là nghiện hút thuốc phiện, ông chú mình tốn bao tiền bạc vì nó, nhưng cơn nghiện của nó không "chữa khỏi", một ngày nó lấy trộm hết số tiền dành dụm của chú mình và biến mất từ đó đến nay, ông chú mình rất đau khổ vì con, nhưng vẫn tuyên bố dứt khoát rằng, thằng em họ của mình là "cái thằng mất dạy", đối với chú, nó là "chết rồi". Thế đấy! Và mới đây, mình nghe tin nó vẫn "sống nhăn răng" ở Sài Gòn, nhưng có lẽ, còn lâu mới dám về Quảng Ngãi để "thú đầu nhận tội" với người cha đẻ mình. Tức là tuy nó vẫn "sống", nhưng với ông chú mình, kể như đã chết, chết một cái..., ờ, phải nói như thế nào nhỉ? À, mình nhớ ra rồi, ...chết tiệt! Hehe...

Ngược lại, "có những cái chết trở thành bất tử", hưhư... Tức ý mình muốn nói, có những "cuộc sống đời đời", "chết rồi" nhưng vẫn "sống mãi"! "Sống mãi" ở đây, dĩ nhiên là mình không có ý "mỉa mai" cái sự "sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta" của Chí Minh đâu. Mình muốn nhắc đến cái "sự sống đời đời" của Chúa Giê-su. Cho đến bây giờ, loài người chúng ta vẫn chưa "xác định" được bao giờ là "tận thế", tức là theo mình, cái sự "sinh tồn" của Chúa nói riêng, hay của "những đứa con của Thượng Đế" nói chung, là vĩnh cửu! Nhưng mà mình lại "dông dài dai dại" mà làm gì cơ chứ! Cái sự con người chúng ta đang "thi hành" trên cái "trần gian lắm" này, không phải là "sự sống đời đời", thì là gì hả trời?! A-men!

Thứ Năm, 16 tháng 12, 2010

Chuông nguyện hồn ai!

Mình vừa nghĩ ra một thứ "tiếng" mà mọi sinh linh trên thế gian này, kể cả động vật, thực vật, hay kẻ điếc, người mù, đều "biết". Đó là tiếng chuông!

Và cái tiêu đề tiếng Việt "Chuông nguyện hồn ai" cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "For whom the bell tolls" của nhà văn Emest Miller Hamingway, theo mình, là một trong những tên sách hay nhất thế giới. Nói về các tên tiểu thuyết hay, chỉ tên thôi nhé, thì có lẽ sẽ phải "tranh cãi" nhiều, nhưng bài này, mình chỉ muốn "bàn" về "tiếng chuông" thôi, hehe...!

Còn đúng một tuần nữa là đến ngày tiếng chuông nguyện hồn của Chúa, của Con Người, của mọi sinh vật trên thế gian này, sẽ vang lên trong tất cả nhà thờ. Đó là tiếng chuông thiêng liêng của Thượng Đế đem niềm thương yêu đến cho những đứa con lầm lạc tăm tối của Ngài. Nhiều khi mình nghĩ, không biết ai là người đầu tiên nghĩ ra tiếng chuông nhỉ? Chắc chắn không phải là "người trần mắt thịt" như mình, mà có lẽ là một "sứ giả" gì đó của... Trời! Hay gọi "nôm na" là thiên sứ, có thể lắm! Và giữa tiếng chuông và tiếng nói, cái nào có trước? Mình hỏi có vẻ "hắc búa" nhỉ, kiểu như "những câu hỏi lớn của nhân loại" ý! hehe...

Nhưng phải công nhận rằng, nghe tiếng chuông, ai ai cũng hiểu nó, kiểu như nghe... tiếng mẹ đẻ ý! Mà đúng thế, nhất là tiếng chuông cầu nguyện vào ngày Chủ nhật ở nhà thờ chẳng hạn. Mặc dù không phải là "con chiên của Chúa", nhưng mình đã có rất nhiều dịp đi nghe giảng đạo ở nhà thờ. Không, mình nghe tiếng chuông thì đúng hơn, bởi vì những lời giảng đạo của ông linh mục, thì mình đã đọc được trong Kinh Thánh rồi. Mình đi nghe tiếng chuông, bởi vì dường như tiếng chuông nhà thờ lần nào cũng "khác", lần nào cũng như "nhắn nhủ" điều gì đấy khác lần trước. Kể cũng lạ! Mấy người bạn Hung theo đạo Công giáo thường hay tâm sự với mình, họ như nghe được lời của Chúa mỗi khi tiếng chuông nhà thờ ngân lên. Tiếng chuông như một lời dạy bảo họ, một tiếng tha thứ mọi lỗi lầm cho họ, một tia ánh sáng chỉ đường trong cuộc đời...

Nhà văn Hồ Anh Thái có tác phẩm "Cõi người rung chuông tận thế" rất hấp dẫn, mình đọc "ngấu nghiến" trong vài tiếng đồng hồ là... "hết"! Dĩ nhiên, đấy là do nội dung của cuốn truyện là hay, là thu hút. Nhưng riêng cái tiêu đề, nó đã "chinh phục sát đất" mình rồi. "Tiếng chuông" của Hồ Anh Thái ở đây, như một lời "cảnh tỉnh" cho lớp người tăm tối chỉ muốn "gây cái ác" cho đồng loại, chứ không phải tiếng chuông đem niềm thương yêu của Thượng Đế cho chúng sinh. Nhớ hồi còn nhỏ, tức là hồi mình còn ở cái tuổi "hôm nay em đến trường, mẹ dắt tay từng bước" ý, mình thích nhất tiếng chuông tan giờ. Bây giờ nghĩ lại, có thể nói là tiếng chuông tan học hồi đó, đã "đem niềm vui đến cho mình", hehe..., Ở cái tuổi ham chơi lười học của mình, tiếng chuông tan giờ không mang niềm vui, thì mang "niềm" gì đây hả trời?!

Tuy thế, có những tiếng chuông đem nỗi sợ hãi đến cho mình. Tỉ như tiếng chuông báo hết giờ trong các kỳ thi, nhất là những lúc mình làm... "chưa hết" bài, tức là không giải hết các bài toán chẳng hạn. Những lúc đấy, mình như là một nhân vật của "Những người khốn khổ" của Victor Hugo, nghe tiếng chuông mà "vãi cả linh hồn"! hehe... Tất nhiên, tiếng chuông như một nỗi sợ hãi đối với mình, là chỉ một số ít trường hợp thôi, chả là mình... giỏi toán mà lị, hehe...!

Nói chung lại, mình thích tiếng chuông, tiếng chuông "nguyện hồn"... mình! Cái điệu nhạc báo có cuộc gọi hay tin nhắn trong mobil của mình, mình cũng cài đặt là tiếng chuông. Nhớ hồi nào, khi còn đang trong giai đoạn "tìm hiểu nhau", mình cứ suốt ngày mong tiếng chuông báo hiệu có cuộc gọi hay tin nhắn của "cô ấy", tức là vợ mình bây giờ, hehe... Và thật kỳ lạ, có những lần, mình gần như đoán trúng nội dung tin nhắn của "cô ấy", mặc dù chỉ nghe có mỗi tiếng chuông rung thôi!

Mùa Giáng sinh năm nay, mình lại được nghe tiếng chuông, "tiếng chuông nguyện hồn ai"!

Hãy ngân lên đi lời yêu thương của Chúa!

Vâng, Chúa hãy đánh thức con bằng "tiếng chuông" của Ngài! A-men!

Thứ Hai, 13 tháng 12, 2010

A-men!

Mình lấy cái tiêu đề của entry này là A-men, bởi vì chỉ còn chục ngày nữa là đến Giáng Sinh, ngày Chúa Giê-su ra đời. Từ "A-men" này luôn có sau mỗi câu cầu nguyện của người theo đạo Công giáo, hình như nó có nghĩa "Xin được như ý!" thì phải. Vào dịp Noel, con người ta sống ở trên cõi đời này, nhất là ở những nước châu Âu phát triển, ngoài những giây phút nghĩ về Đức Chúa Trời, Đức Chúa Giê-su, Đức Thánh Linh ra, thời gian vàng ngọc còn lại, thì có cớ để "hưởng thụ" một cái thú (tính) khác, rất chi là... vô tích sự! Ý mình muốn nói đến sự tiêu tiền rất chi là... vô tư của xã hội vào những ngày chuẩn bị đón Noel này.

Họ tiêu tiền vào việc mua sắm quà cáp cho nhau, hoặc tự cho mình. Kể ra cái "thú (tính)" này cũng... tốt thôi. Mua tặng nhau quà là sự biểu lộ tình thương yêu cho nhau, thì có gì là xấu cơ chứ?! Nhưng nhiều khi, cái sự "biểu lộ tình thương" này, nó, phải nói là, mang đậm tính... "thú vật chất". Việt Nam mình có câu thành ngữ "Của ít lòng nhiều", nếu đem áp dụng vào cái sự "biểu lộ lòng thương yêu" ở thế giới Phương Tây đầy thực dụng này, có lẽ, không, chắc chắn, sẽ bị người ta..."cười vào mặt" mất! Hehe...

Những năm còn là sinh viên, mình hay được các bạn Hung cùng lớp rủ về nhà chúng "ăn" Noel. Và cũng vì thấm nặng chất "Của ít lòng nhiều" của quê nhà Việt Nam, nên mình chỉ biết mua tặng bạn một cuốn sách mỏng và rẻ gì đấy, "gọi là chút quà mọn, tượng trưng cho tình thương yêu bao la tao dành cho mày, nhá!" Mình nhớ là bao giờ mình cũng nói vanh vách một câu cầu nguyện học thuộc lòng trong Kinh Thánh cho đứa bạn Hung và gia đình nó, và dĩ nhiên, cuối cùng luôn buông "a-men" đánh phào nhẹ nhõm để kết thúc cái lễ nghi tặng quà trước khi ngồi vào bàn để đánh chén "bữa ăn tối Thánh" ngon tuyệt của một gia đình Hungary.

Cái "trò" mua sách tặng nhau dịp Noel của xã hội Phương Tây, kể ra rất có tính văn hóa, chứ không tính "thú vật chất" tí nào cả! Cái tủ sách của mình một nửa là sách được tặng. Có sách đến hai cuốn lận, bởi vì hai người bạn của mình đã không biết là người kia mua rồi. Những năm nào không theo bạn Hung về nhà nó, mình nằm đắp chăn đọc sách cả ngày, chìm đắm vào thế giới của sách, nhiều hôm quên khuấy chuyện đói và ngoài kia tuyết rơi trắng xóa ngập trời. A-men!

Nói đến tuyết, năm nay có lẽ Noel ở Budapest sẽ "trắng", tức là tuyết sẽ rơi vào đêm 24, lúc Chúa giáng sinh. Cảnh đêm "Noel trắng" bao giờ cũng "chinh phục" mình. Cảm giác con người như rơi vào xứ thần tiên địa đàng. Không gian lấp lánh đủ mọi thứ ánh sáng huyền ảo của ngày lễ, ánh đèn điện, ánh trăng sao, ánh mắt người thương... Tất cả hòa quyện thành một thứ ánh sáng lung linh của Thiên Đàng hiển hiện trên thế gian này! Xin hãy được như ý! A-men!

Chủ Nhật, 12 tháng 12, 2010

"Giáng Sinh", hay "Nỗi đau" của Chúa...

Chỉ còn mấy ngày nữa là đến Lễ Noel, hay nói theo tiếng Việt "trong sáng ngoài tối" của mình là "Ngày Chúa Giáng sinh". Ở Việt Nam quê nhà, từ hồi "mở cửa", thì dường như Lễ Noel ngày càng được trọng vọng hơn, và đã trở thành một lễ hội nghiêm chỉnh trong dân chúng. Dĩ nhiên Tết vẫn là lễ hội "to" nhất của Việt Nam, nhưng Giáng Sinh cũng đã có được cái "tầm" tương xứng, nhất là ở miền Nam và trong giới trẻ. Mình xa nhà lâu rồi, những lần về thăm quê hương lại không đúng vào dịp Lễ Noel, nên không biết ở Việt Nam bây giờ dân tình kỷ niệm "Ngày Chúa Giê-su ra đời" như thế nào. Tuy vậy mình vẫn nhớ cái cảm giác thật êm đềm, linh thiêng trong nhà thờ của thành phố Quảng Ngãi vào "những năm xưa ấy", khi mình cùng lũ bạn theo đạo Thiên chúa rủ nhau "đi ăn mừng" Giáng sinh.

Có lẽ cái "ý thức" về ý nghĩa lớn lao của Lễ Noel, hay sự hiểu được "vì sao Chúa Giê-su ra đời?", chỉ có được trong mình từ khi mình đọc Kinh Thánh. Nói về các quyển kinh của đủ mọi thứ tôn giáo trên thế giới, có lẽ Kinh Thánh là cuốn kinh "vĩ đại" nhất, "đích thực" nhất. Mình đọc ở đâu đó, rằng mọi sự kiện lớn, đã, đang và sẽ xảy ra trên cõi đời này, đều "có" trong Kinh Thánh, chẳng qua loài người không chịu "tìm hiểu" nên không biết đấy thôi. Thượng Đế là toàn năng, và rất yêu thương "những đứa con" của mình - và đặc biệt Loài Người chúng ta! Ngài không dấu diếm điều gì với "những đứa con đầy tăm tối" của mình cả, đã mở rộng lòng mình dạy cho "chúng" rằng: nền tảng của sự sống là tình thương, nguồn gốc của tội ác là lòng tham. Nhưng "chúng" có chịu "nghe lời" đâu, "chúng" còn quá "u mê" trong cái "trần gian lắm" này, cứ "dương dương tự đắc" tưởng rằng Chúa Giê-su đã chết trên Thánh giá rửa tội thay rồi, muốn làm gì thì làm, cứ muốn gây tội ác mãi!

Có nhiều lúc mình chợt nghĩ, Thượng Đế có lẽ đang đau lòng lắm lắm cho nhân loại. Ngài đau vì đã không "dạy bảo" được cho "nên người" những đứa con ngu muội của mình?! Ngài "day dứt" vì sự "nửa chừng cứu rỗi" của mình, loài người chúng ta vẫn đang sống trong khổ đau tăm tối, vẫn chưa thấy ánh sáng của Thiên Đàng chiếu rọi xuống "ngục tù bao la" là cái "trần gian lắm" này. Mình cũng nghĩ, mặc dù Thượng Đế vẫn luôn "đưa xuống" cho loài người chúng ta những "phương tiện tân tiến" để có thể "đi lên Thiên Đàng" nhanh hơn đấy, như là ngôn ngữ, nghệ thuật, tôn giáo... thời xa xưa, và những phát minh khoa học như điện, máy tính, internet... ngày nay, nhưng khốn nỗi, "những thế lực thù địch" - lũ ác quỉ Sa-tan - chúng dường như vẫn "mạnh" hơn, vẫn làm "chúng sinh chúng ta" trầm luân "ngụp lặn" hết "bể dâu" này đến "bể khổ" khác! Vậy tại sao, tại sao? Chẳng lẽ, tại Trời, tại Trời!?

Mình nhắc đến ngôn ngữ, cũng có cái dụng ý của nó, hehe...! Tức là mình muốn nói rằng, một trong những "phương tiện tân tiến" mà Thượng Đế "dành tặng" loài người vào "thưở xa xưa", là ngôn ngữ, như một "phép lạ" hiển hiện mà bao kẻ "vô thần" không chịu "nhìn nhận". Và theo mình, loài người chúng ta có được ngôn ngữ để "sinh sống và tồn tại trên cõi đời này", là một điều kỳ diệu nhất, là một món quà lớn nhất từ Thượng Đế! Chỉ riêng việc con người dùng ngôn ngữ để "trao đổi" với nhau hàng ngày (tỉ như viết blog chẳng hạn, hehe!), để phân biệt phải trái, thiện ác, tốt dở, đẹp xấu... đã là một điều quá "thần thông quảng đại" rồi, nữa là sau này, nhờ ngôn ngữ mà loài người chúng ta có thể "lên đến Thiên Đàng gặp lại Người Cha yêu dấu là Thượng Đế" được, thì quả là "kỳ diệu" quá còn gì!

Nói dông dài, chẳng qua mình muốn nói đến "nỗi đau" của Chúa Giê-su, khi Ngài được Đức Mẹ Đồng Trinh Maria sinh ra trong hang đá thưở ấy. Tức là mỗi sinh linh trên thế gian này, khi "sinh ra", đều cất tiếng khóc của "nỗi đau" để "chào đời"!

Ngày ấy, đêm Giáng Sinh, phải chăng Chúa Giê-su đã cất tiếng khóc bởi nỗi đau Chúng Sinh phải sống kiếp đọa đầy?!

Thứ Tư, 8 tháng 12, 2010

Ở đời này cái gì cũng "nửa chừng..."

Khái Hưng có tác phẩm "Nửa chừng xuân" để đời. Tên cuốn tiểu thuyết lừng danh của ông hóa ra lại đúng với mọi sự trên đời này! Có khác chăng, chỉ ở cái từ thứ ba mà thôi! Ví dụ như: nửa chừng ăn, nửa chừng uống, nửa chừng yêu, nửa chừng nói, nửa chừng xây dựng, nửa chừng cách mạng, v.v... Hôm qua mình viết mấy dòng suy nghĩ vẩn vơ về những cái TÔI vĩ đại của nhân loại xong, thì thấy ở đời này cái gì cũng... nửa chừng! Đây nhá, mình xin chứng minh như sau:

Nói về những cái sự "lớn lao" như là sự cứu rỗi loài người của Thượng Đế, cũng nửa chừng, nửa chừng một cách... kinh khủng! Theo những gì mình biết, thì Thượng Đế "cử" đứa con trai độc nhất của mình, là Đức Chúa Giê-su, xuống trần gian hòng cứu rỗi linh hồn đám dân đen tối tăm tội lỗi lên thiên đàng trở lại, nhưng Giê-su chỉ làm được có... một nửa rồi bỏ dở! Tức là chỉ chết thế nhân loại, chứ tất thảy họ - chúng ta - có được lên thiên đàng đâu?! Như thế không nửa chừng thì là gì?

Rồi, hoặc như cái sự tồn tại của Vũ Trụ này, cũng nửa chừng. Einstein chẳng bảo vũ trụ của chúng ta đang giãn đấy là gì, tức là ông Trời ổng chửa "nặn xong" vũ trụ đâu đấy nhé, từng có mà tưởng bở, hehe...! Nửa chừng, nửa chừng, tất thảy đều nửa chừng!

Nói đến "Nửa chừng xuân", mình nhớ mối tình sinh viên thời Bách khoa Đà nẵng. Mình yêu thầm nhớ trộm cô bạn học cùng khóa, cũng tán lên tán xuống (trong mơ thôi) đấy, nàng sắp đổ thì chúng mình được "lệnh" đi Đông Âu học. Mình đi Hungary, còn cô bạn đi Đông Đức. Thế là tan vỡ, đường em em đi, đường anh anh đi, duyên tình đôi ta chỉ thế thôi... Sau này, hai đứa có gặp nhau một lần, ở thế kỷ trước, khi mình mời "người yêu xưa" sang Budapest chơi, nhưng lúc đó mình đang mải "chén thù chén tạc" với các em "da trắng tóc vàng miệng xinh xinh" nên "người yêu xưa" cũng chẳng "mặn nồng" gì cái chuyện "nối lại duyên xưa mình với ta" cả, chuyện tình hai đứa cực kỳ ngắn, ngắn hơn... truyện cực ngắn!

Nói đến tình yêu, thì phải nói đến cuộc sống! Bởi vì cuộc sống không thể thiếu tình yêu! Như loài hoa đẹp không thể thiếu hương thơm. Hoa đẹp mà không có hương vị gì, coi như... vứt, đời "em" như thế, gọi là "tàn", là "tạ". Mình chợt nhớ nhà "ông Lành", tức nhà "thơ Tố Hữu". Nói vậy chứ cái nhà ông Lành này có cái bài thơ gì đấy nghe cũng "bùi ngùi" tai ra phết! Đó là bài "Người con gái Việt Nam", có mấy câu: "Em là ai, cô gái hay nàng tiên, em có tuổi hay không có tuổi?". Trong trường hợp này, mình xin trả lời là, "em" là Hoa Phi Hương, con Hoa Quốc Phong, cháu Hoa Thịnh Đốn! hehe... Nói tóm lại, "em" vô dụng, cùng lắm, chỉ có thể dùng "em" vào cái việc "thầy bói đoán mò", tức là bứt từng cánh của em để bói, yêu, không yêu, yêu, không yêu, yêu, không yêu... mà thôi! Nhưng "anh" cũng chỉ dám "bứt" đến... nửa chừng, bởi vì ai nỡ lòng nào "bứt" hết một đời hoa!

Nhắc đến cái nhà ông Lành, lại cũng phải nhắc đến cuộc cách mạng... nửa chừng của dân tộc Việt Nam. Mình nói nửa chừng, là vì thế này: giành được "độc lập tự do" rồi, mấy thằng cha của đảng cộng sản nhà ta sinh ra... "đổ đốn". Mấy chả không chịu tiến lên... làm "tới số" cái ước nguyện của Chí Minh là "xây dựng đất nước đàng hoàng hơn to đẹp hơn", mà chỉ suốt ngày lo... đớp, đớp nhanh, đớp mạnh, đớp vững chắc, đớp sạch sành sanh, để cả lũ thành một băng đảng mafia, còn dân đen trăm họ cùng cực khổ sở thiếu thốn trăm đường trăm ngả, thì... mặc xác bay! Hàng ngày mình theo rõi tin tức ở quê nhà Việt Nam mà thấy quặn ruột. Không biết vì đau hay do tức! Nhưng nói chuyện quê nhà Việt Nam mà làm gì! Chán lắm! Nói chuyện khác đi!

Ờ, mình nói chuyện khác vậy. Chuyện chết, chết nửa chừng, nhá! Chuyện chết nửa chừng của Chí Minh! Chả là cái nhà ông này tuy là người thiên cổ từ lâu rồi đấy, nhưng ông ta đã chết một cái chết... nửa chừng, nửa chừng như mọi sự trên đời này! Bởi vì ông ta đã "ngỏm củ tỏi" thật sự từ 1969, nhưng người ta vẫn ra rả suốt ngày từ bấy đến nay là ông ta "sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta". Chết rồi nhưng vẫn sống mãi, chẳng là chết nửa chừng thì là gì? Đấy là chưa kể, cái "cá nhân" của ông ta, ý mình nói cái thi xác của ổng, hàng ngày bị đưa lên đưa xuống trong huyệt (huyệt, đấy là gọi theo "tiếng Việt trong sáng ngoài tối", còn gọi theo tiếng CHXHCN Việt Nam là lăng), tức là cái sự mai táng nửa chừng của cái chết nửa chừng... Mà cũng đúng thôi, cả cái gọi là "sự nghiệp" của Chí Minh, cũng "nửa chừng", sống nửa chừng, yêu nửa chừng, thơ nửa chừng, văn nửa chừng, ở tù nửa chừng (thân ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao, hehe...), rồi chiến đấu cũng nửa chừng, lãnh tụ lại càng nửa chừng, và cuối cùng, chết nửa chừng! Mà mình việc gì phải "dài dòng văn tự" nhỉ?! Chỉ riêng cái việc một nửa dân tộc Việt Nam nguyền rủa Chí Minh đã là "bằng chứng hùng hồn" cho sự "nửa chừng" của ông ta rồi còn gì! hehe...

Thôi, cái entry này mình chỉ viết... nửa chừng thế thôi. Kẻo mọi người lại bảo mình không "nhất quán" với bản thân, đã bảo mọi sự trên đời này đều nửa chừng, thì viết bài cũng phải nửa chừng chứ! hehe...

Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010

Những cái "TÔI" vĩ đại

Sắp tới Noel, mình tự nhiên lại nghĩ nhiều về nhân vật Chúa Giê-su. Theo sách vở và Kinh Thánh, thì nhân vật này đã tồn tại, tức là có thực trong lịch sử loài người. Nói về những "cái TÔI vĩ đại", theo "thuyết không số phận" của Kertész Imre, thì trước tiên phải kể đến nhân vật Đức Chúa Giê-su này. Nói thực tình, mình chưa đọc hết Kinh Thánh, nhưng cũng cảm nhận được sự vĩ đại của con người huyền bí thần thánh nhưng lại rất "trần gian thường tình" này. Có một bộ phim về Giê-su rất cảm động do diễn viên gạo cội Hollywood Mel Gibson đạo diễn, bộ phim The Passion of the Christ, mà mình xem xong bị ám ảnh suốt mấy tháng trời vào mùa Noel 2004. Phải nói là bị "sốc" thì đúng hơn! Bộ phim nói khá rõ về cái "tôi" của Chúa Giê-su. Mình cứ bị cái hình ảnh Chúa gục đầu trên cây Thánh giá ở cuối phim đeo đuổi mãi. Cái câu hỏi, tại sao Chúa Giê-su biết trước là mình phải xuống trần gian để chịu tội chết thế cho loài người tăm tối, là sẽ phải chịu mọi khổ đau, nhưng vẫn cứ xuống, nó cứ dằn vặt mình không nguôi. Phải chăng cái TÔI của Chúa quá vĩ đại? Phải chăng cái TÔI của Chúa cũng đã biết trước rằng, cái "cá nhân" của Chúa - cái "thân cát bụi", lại "trở về cát bụi", và chỉ cái TÔI là sống đời đời?

Trong một lần tranh luận với thằng bạn nhậu, mình nói với nó là, trong mỗi con người chúng ta có một chút Thượng Đế, cái một chút Thượng Đế ấy, nếu được "chăm nuôi tử tế", mỗi chúng ta có thể là một Đức Chúa Giê-su, thậm chí là một Thượng Đế hiển hiện chứ không bỡn! Nghe xong những lời "cuồng tín" này của mình, nó trố mắt tưởng chừng con ngươi sắp lòi khỏi tròng, không nói lên một lời nào. Những lần gặp nhau sau đấy, khi đã "hoàn hồn", nó vỗ vai công nhận, Đức à, mày nói đúng đấy, cố mà nuôi cái chút Thượng Đế trong người mày đi, tao thấy nó bé tí, cố lên, cố lên, để tao gọi mày là Đức chúa, nhá, hehe...! Thằng chết tiệt, mày chỉ được cái xiên xẹo, mình đã quật lại nó như thế.

Viết đến đây, mình lại nhớ đến cụ Trần Dần. Cái "tôi" của cụ cũng vĩ đại không kém cái "tôi" của Đức Chúa Giê-su, mình nghĩ thế. Câu chửi đổng "Nắm, nắm cái con cặc!" của cụ đúng là một sự biểu hiện cái "tôi" thật mãnh liệt và đầy khí phách. Đến như Nguyễn Tuân còn phải biết sợ suốt cuộc đời mình, hoặc như Nguyễn Khải cũng chỉ "vớt vát" tí "tiếng cười Thượng Đế" còn vẳng lại trong vài "mảnh TÔI rơi rớt" tìm thấy được vào cuối đời. Tức là, nói một cách văn vẻ, Nguyễn Khải đi tìm cái Tôi đã mất, còn Thượng Đế thì cười! Hehe...

Một cái TÔI vĩ đại nữa, đó là cái TÔI của Jázmin. Hôm qua, ngày ông già Tuyết, nàng được một gói kẹo chocola to tướng. Thế là nàng đưa cho mình hết, chỉ giữ lại hai viên, mình hỏi tại sao, nàng ghé tai nhỏ nhẻ, một của con, một của mẹ, còn lại của ba, bởi vì con yêu ba nhất! Ôi, Jázmin, con gái yêu của ba!

Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2010

Nhớ Nam Cao

Ngày xưa, tức là vào quãng nửa cuối của thế kỷ trước, khi mình đọc Nam Cao, đã cảm thấy những điều huyền bí trong các tác phẩm của ông. Mình thường nhận xét với thằng bạn cùng lớp là, trong thơ có Nguyễn Du, trong văn có Nam Cao, là những nhà văn lớn của Việt Nam. Hồi đó, mình đã bị những chữ đồng âm khác nghĩa của hai "anh tài" này "đánh gục".

Trước tiên, mình muốn nói đến chữ "tai" của Nguyễn Du trong câu thơ Kiều:

"Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần"

Để tiếp thụ tri thức, con người ta có cái mắt để nhìn, cái tai để nghe và "cái" óc để tổng hợp, tư duy và... "hấp thụ". (Mình để "hấp thụ" trong dấu ngoặc kép, tức là nhấn mạnh chữ "hấp thụ", là cũng có "thâm ý" đấy, mình sẽ nói sau, nghĩa là về những trường hợp... "cám hấp thụ", hehe...!). Khởi thủy của một đời người, ý mình muốn nói đến cái thời "trai tráng trẻ con" ý, lúc con người lên ba lên năm trọ trẹ "tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin" (hehe...), cái "tai", có thể nói, đã "hoành hành" một cách đầy "ngạo nghễ" trong công cuộc "hấp thụ tri thức" của chúng ta rồi. Nêu câu thơ của Tố Hữu ra đây, thực ra mình không muốn "xúc phạm" cái nhà "ông Lành" này làm gì, bởi vì cái nhà ông này đã trở thành người thiên cổ từ lâu, mà chỉ muốn dẫn chứng một cái sự "tai ương" của nhân loại, mà cụ thể là của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ trước. Sự "tai ương" đó như thế nào, chắc nhân dân Nga-Sô biết rõ hơn mình, hãy để nhân dân Nga-Sô lên tiếng vậy!

Ở đây, mình chỉ muốn nói đến mối liên quan rất chi là mật thiết của cái "tài" và cái "tai". Ngày xưa, (lại ngày xưa), ý mình muốn nói đến cái thời Adam và Eva còn "lông lá ở truồng" với nhau trên Thiên Đàng ý, cũng vì họ có cái tai nghe "những lời đường mật" của con rắn, mà cả hai "anh và ả" phạm tội tổ tông, và bị Thượng Đế "giáng thế" xuống trần gian sống kiếp đọa đầy. Cái họa của Adam và Eva do cái tai "gây" ra ở trên Thiên Đàng thời đó, mình gọi là "thiên tai". Từ đó suy ra, và cũng chính vì thế, mà sau này nhân gian gọi tất cả những "khổ ải từ trên trời rơi xuống", như là mưa bão, lũ lụt, hạn hán, giông tuyết,..., tất tật, là "thiên tai", chắc thế! Hehe...

Có một điều "trớ trêu" nữa của "thiên tai", đó là: Khi dân tình quá cơ cực bởi "thiên tai", không chịu nổi nữa, họ muốn nhờ đến sự cứu vãn của "thiên tài Trời Đất", thì "kêu trời trời chẳng thấu, gọi đất đất không hay", những lúc như thế, "thiên" có "tai" cũng như không, bởi vì có nghe thấy tiếng than của dân tình đâu! Cũng như thế, "thiên" có "tài" cũng như không! Tài với cán gì, khi mà dân tình vẫn muôn kiếp khổ sở muôn đường, Trời Đất ạ!

Nói túm lại, cụ Nguyễn Du nói rất chí phải, "Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần"! Mọi tội lỗi của loài người chúng ta, đều bắt đầu từ cái "tai" mà ra. Tỷ như vợ nghe lời phỉnh dụ của trai cường tráng mà đem miệng đi... nuốt nem, còn chồng thì ngả theo tiếng gọi của gái chân dài mang mồm đi... đớp chả. Tai hại, tai hại! Nói đến đây, mình phải nhắc lại cái "tai ương" của cái nhà "ông Lành", quả thật là tai hại khi cái nhà ông này nghe tiếng trẻ thơ bi bô đòi sữa uống thành "Xít ta lin". Tai hại, tai hại! Phải hiểu "tai hại" có nghĩa là: Cái tai của chúng ta đúng là đồ... ăn hại! Hehe...

Vậy tại sao mình lại nhắc Nam Cao ở đây? Cái nhà "anh tài" này có chữ "để đời" nào? Ờ, mình xin nói luôn đây:

Đó là chữ "CHÍ", "CHÍ PHÈO" liền với "CHÍ MINH" một vần!

Thứ Tư, 1 tháng 12, 2010

Muối và Tiêu (6)

Tuyết

Giữa tháng Ba tuyết rơi thêm một lần nữa. Không gian như được lấp đầy ánh lung linh của phép màu huyền ảo. Gió mang hơi nước rào rào từng cơn vào cánh rừng, những dấu chân của muông thú chằng chịt lên nhau trên đất bùn trộn tuyết, như thể mọi sinh vật của dương gian này đang chen nhau tìm đường trốn chạy. Tôi đứng bên cửa sổ trong căn phòng lạnh lẽo, thỉnh thoảng rùng mình vì giá rét, tôi ngắm tuyết xanh trải dài trên những mỏm núi xa xa. Rít một hơi thuốc lá. Thái dương tôi đã lấm tấm bạc. Tôi không còn buồn rầu nữa. Chỉ hơi ngượng ngập một chút.

Nghệ sĩ

Bốn giờ sáng, trong căn phòng dày đặc khói thuốc lá và màn mây tư tưởng, giữa hơi nóng của thức ăn và đồ uống, những con người bắt đầu nói chuyện với nhau, một cách say sưa, nhộn nhạo, không còn biết gì đến trời đất nữa. Kẻ thì thao thao bất tuyệt, vì sao không thành công, người cằn nhằn, giá như thế này, giá như thế kia, kẻ thứ ba thở dài với những tham muốn của mình, người thứ tư ngao ngán với thất bại lần thứ mười lăm - họ nháo nhào cắt lời, soi mói nhau, những tia nhìn như bốc lửa, như thể giờ phán tội đã điểm, ai ai cũng thấy, phải nói ra và có thể nói ra hết.

Bốn giờ sáng, những con người nói chuyện với nhau như thế. Nhưng trong một góc phòng, bên cửa sổ, một kẻ ngồi im lặng. Anh ta ngồi cô độc một mình, cái ly trước mặt, điếu thuốc giữa ngón tay, mơ màng nhìn làn khói xám, ánh mắt xa lạ, vô phương hướng. Con người này không nói một lời nào, trong khi mọi kẻ khác tưởng rằng cần phải nói và có thể nói hết, chính là nghệ sĩ.

Thứ Ba, 30 tháng 11, 2010

Muối và Tiêu (5)

Lâu đài

Trời chiều xám xịt lúc tôi đến lâu đài. Tôi, kẻ du mục xa lạ. Lâu đài đang tàn đổ, những chủ nhân của nó, những quí ông bỏ đi từ lâu, có lẽ giờ này họ ngồi trong những căn phòng thuê ngắn hạn ở đâu đó, những thành phố lớn, giải ô chữ, đố vui, dưới ánh điện, họ nhìn những móng tay dài của họ, phụng phịu. Lâu đài còn lại ở đây, ngày thêm ngày, phai nhạt hơn, loang lở hơn, như một người bệnh mãn tính. Hôm nay một cái cột đổ, ngày mai một cửa sổ rơi. Rêu xanh phủ kín dần các bức tượng sư tử bằng đá. Hồ phun nước cạn khô, xác những con cá vàng cong keo, chỏng chơ. Phía sau miếng kính vỡ cửa sổ, trong những căn phòng phất phơ mạng nhện, hoang trống, chỉ cơn gió của nỗi đau đớn tình yêu đơn phương còn mải miết giật kéo các cánh cửa. Bởi vì những lâu đài cũng đang chết đi, như mọi thứ quí tộc trên thế gian này. Chúng mất đi, như tôi và bạn. Nào, chúng ta hãy cùng ngồi xuống thềm đá của lâu đài nào!

Sự trọn vẹn

Chẳng phải là thời trai trẻ tốt hơn: nông nổi thì đúng hơn, ta luôn sợ rằng mình bỏ sót cái gì đó. Giờ đây ta biết, hàng ngày, mọi giây phút, ta đều bỏ sót rất nhiều; nhưng cái ý thức này không còn làm ta đau nữa. Tuổi trẻ đầy một loại u buồn của ta, như bóng tối và áp suất thủy lực cho những loài cá dưới đại dương sâu thẳm; ta gần như sợ đến những vùng trời khác, lên cao hơn, lên trên bề mặt. Giờ đây ta không sợ gì nữa, ngoài những căn bệnh triền miên, những cuộc đọa đày phi lý. Cái chết, sự nghèo khổ, những xuẩn ngốc thú vật của con người, tất cả tồi tệ của trần gian, đã không còn gây cảm giác sợ hãi cho ta nữa. Không, thời trai tráng không tốt hơn. Giờ đây mọi thứ có vị thật của nó: ngọt: là ngọt, đắng: là đắng, cái gì thơm: là thơm, cái gì thối: là thối. Có lẽ đây là thời gian của sự trọn vẹn, giữa bốn mươi và năm mươi. Thời Gian, ta xin cúi rạp trước ngươi, lặng lẽ và thành kính!


Thứ Hai, 29 tháng 11, 2010

Muối và Tiêu (4)

Tự sự

Có lẽ khoảnh khắc, khi bạn tuyên bố bạn muốn tất cả mọi thứ, sẽ phải đến. Tất thảy, những thứ đích thực, không phải những thứ đền bù, hoặc tương tự, hay phụ: tất thảy, hạnh phúc và đích thực, toàn bộ sự thật, cho dù chúng có đáng sợ và thô thiển như thế nào chăng nữa. Bạn không muốn những thứ thay thế cuộc sống, chỉ hao hao giống cuộc sống, bạn không muốn những thứ chỉ là bức tranh biến dạng khéo léo của tâm hồn và chữ nghĩa, thay vì tâm hồn và chữ nghĩa; bạn muốn yêu đương những người đàn bà đích thực, muốn viết những cuốn sách đích thực, muốn chiến đấu và hòa giải với những con người đích thực. Bạn muốn tất thảy, không muốn từng mảnh rời rạc của cuộc sống. Ước muốn của bạn không thành. Bạn thất bại. Là kẻ chiến bại bị đâm gục xuống đất bùn, bạn hãy than lên điều này: "Ít nhất ta đã thèm muốn tất thảy, ít nhất ta đã muốn cái đích thực, chỉ bấy nhiêu thôi, các người hãy hiểu và tha thứ cho ta."

Mưa

Đã bốn ngày mưa rơi. Tôi viết những dòng này dưới ánh điện, vào buổi chiều; mưa lộp bộp lên kính cửa sổ, như thể thiên đàng đang dùng một súng máy xinh xinh nã những tràng đạn mềm mại xuống trần gian. Tất thảy một màu xám xịt như những tàu chiến hạm, ướt át và căng thẳng.

Bốn ngày mưa rơi, tôi không nhìn thấy lối thoát cho cuộc đời mình. Có lẽ sáng suốt hơn, nếu tôi nằm xuống vệ đường, trần truồng, để mưa xối thành tấm giẻ rách ướt, bủng mục. Tôi nghĩ đến điều này và nghe tiếng mưa rơi. Tôi chăm chú nghe, bởi vì điều ấy cũng có ý nghĩa.

Tâm thức

Chúng ta không biết gì về cơ thể của chúng ta. Người ta dạy dỗ chúng ta kém. Tôi gọi điện từ phòng mình đến San Francisco, nhưng tôi không rõ trong những giây phút đó, gan và mật của tôi làm gì. Nhiệm vụ của nền giáo dục mới sẽ là tường thuật cuộc sống của các cơ quan nội tạng. Tôi mà biết động tác của tay, mắt, miệng, thì cũng như thế, cần biết sự hoạt động của dạ dày, lá nách, thận. Con người chưa đủ mạnh và dũng cảm với chính bản thân. Bằng cặp mắt chó sói, con người đã nhìn tới những ngôi sao; với gan và ruột mình, vẫn không dám. Một tâm thức sâu xa hơn, sự kết nối bằng tia röntgen thế nào đó với bản thân - đây là con đường của loài người. Nhưng con đường này đầy trở ngại và đáng sợ, như một cuộc du hành lên Mặt Trăng.

Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2010

Muối và Tiêu (3)

Không khí

Không khí vào đêm trở nên hiền dịu hơn, như thể thế giới hiểu ra rằng, với cơn giận dữ không thể giải quyết được việc gì cả. Với cơn giận dữ, chỉ có thể hành động mà thôi; nhưng sự giải quyết hơn hẳn hành động. Con người hòa giải và sự yên bình sẽ có. Thế giới hòa giải với mùa xuân cũng như vậy đấy. Chỉ những rặng cây còn chiến đấu trong rừng, trần trụi, với những thanh gươm tuốt khỏi bao. Nhưng thung lũng đã trải dài, như một người tình mệt mỏi, giang rộng hai cánh tay. Đâu đây tiếng nhạc đu quay của gánh xiếc ngân nga. Cái gì đó lướt chạm mặt tôi. Tôi không tin vào niềm hạnh phúc, nhưng tôi mừng vui vì vẫn tồn tại khoảnh khắc bình yên trên thế gian này.

Tội lỗi

Tội của tôi không phải là vì tôi nói này nói nọ, cũng không phải là vì tôi làm này làm nọ: tôi không lột hết tiền của các quả phụ và những đứa trẻ mồ côi, không thu tiền vay lãi từ người nghèo, không thuê nhân công với đồng lương rẻ mạt. Nhưng tôi vẫn có tội. Tội của tôi đơn giản là vì tôi sống.

Dường như con người ta luôn luôn sống để chống lại ai đó, chống lại ít hoặc nhiều người. Con người ta luôn luôn sống từ mỡ, công việc, giấc mộng, hạnh phúc của kẻ khác. Tội lỗi của tôi, đơn giản là tôi sinh ra và sống trên đời này. Tội lỗi lớn. Tôi bắt đầu hiểu rằng, người đời không biết và không thể tha thứ tội lỗi của tôi.

Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010

Muối và Tiêu (2)

Con voi

Tôi nhìn thấy con voi mẹ dẫm chết con voi con vừa sinh ra của mình trong khu vườn giam. Thời gian trôi qua trên đầu tôi, trái tim và tư duy của tôi ngày càng nặng mối ưu phiền, tôi muốn tha thứ con voi mẹ và hiểu được hành động của nó. Nhưng tư duy và trải nghiệm chỉ dạy tôi một điều: cuộc sống có duy nhất một sự tử tế, vì nó đáng sống, đó là sự tự do. Tôi bắt đầu hiểu con voi.

Khả nghi

Tôi ngồi trong quán cà-phê, cô đơn và rầu rĩ, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi không hiểu thế giới xung quanh mình, và cùng lúc tôi cảm nhận được ánh nhìn hiện hữu hơn sự va chạm của khả nghi: ai đó đang theo rõi. Từ bàn bên cạnh người ta đang theo rõi tôi; phải chăng công an mật, hay điệp viên chính trị, săn bắt tư tưởng, hoặc thanh tra thế giới quan. Tôi cảm thấy khó chịu. Tôi là một kẻ khả nghi.

Nhưng tôi không là đảng viên của đảng nào cả, tôi nộp thuế đầy đủ, không ăn trộm, không giết người, từ lâu không thèm muốn vợ người khác, bởi vì tôi an phận rằng không có giải thoát trên cõi đời, giữa con người và con người, giữa đàn bà và đàn ông. Vậy tại sao có sự nghi ngờ này? Tôi tội gì?... Tôi chợt hiểu ra:

- Tôi là kẻ khả nghi, bởi vì tôi suy nghĩ.

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2010

Muối và Tiêu (1)

Đây là thập niên giữa bốn mươi và năm mươi, người Pháp gọi: "giữa muối và tiêu". Họ hiểu về mái tóc, xen lẫn màu đen tiêu là cái uyên bác màu muối của những sợi màu bạc. Họ hiểu về con người, bắt đầu trở nên từ tốn hơn: không còn nóng vội và chua cay nữa, thay vào đó, muốn cứu độ và giải thoát. Họ hiểu về cuộc sống, mờ nhạt hơn, vô vị hơn.

Phải chăng cuộc sống trở nên mờ nhạt hơn, vô vị hơn, giữa bốn mươi và năm mươi, giữa muối và tiêu?... Thi thoảng, chưa bao giờ cuộc sống lại đúng và thật như thế. Con người ta sống cuộc sống giữa bốn mươi và năm mươi, không phải cho những dự định xa xăm nữa, cũng không phải cho khoảnh khắc ngắn ngủi, tham lam, như thời trẻ và tuổi già: đây là thời gian sống cho thực tại hiện hữu, cho ban ngày và ban đêm, chính xác, toàn bộ ngày, từ lúc bừng tỉnh thức dậy đến lúc chìm vào giấc chiêm bao, một cách chăm chú và ơn huệ, tường tận và nhẫn nại, gần như hạnh phúc. Bởi vì, niềm hạnh phúc, không gì khác, chính là nắm bắt được cái cuộc sống thực tại, chịu đựng và thông hiểu nó.

Thế giới vẫn xám dần... chỉ một ít, như vào đầu tháng Mười, buổi chiều, những ngày sương mờ. Đâu đó vang lên tiếng đàn, mặt trời chiếu nắng giữa những đỉnh núi, đâu đó những con người suy tư và chiêm nghiệm, đâu đó chúng ta vẫn phải làm gì đó với đời... Ôi, cầu phước lành! Bạn hãy đứng lại, im lặng, khoanh tay trước ngực, hãy mỉm cười, giữa bốn mươi và năm mươi, giữa muối và tiêu.

Trên đây là đoạn mở đầu cuốn "Muối và Tiêu" của Márai Sándor. Mình tự dưng lại thấy muốn dịch Márai. Hôm trước lục lọi cái giá sách, mình tìm thấy cuốn này. Đọc mải miết, quên ngày quên đêm... Ôi, Márai...

Cô gái

Cô gái, không lý do, bật cười khanh khách. Xung quanh cô, bừng sáng dần. Cô cười, vì cảm thấy niềm vui trào dâng trong thân thể mình, hoặc vì cô nhớ lại cái vị ngòn ngọt của miếng bánh sữa, hoặc vì trong đầu hiện lên nụ hôn đầu tiên cô nhận mới đây ở buổi dạ hội, tại hàng lang, bên tai văng vẳng, ngột ngạt tiếng dương cầm dạo khúc van-xơ. Cô vẫn cười. Toàn thân rung lên. Những ngón chân cựa quậy, bờ vai mơn mởn gợn sóng, hai đầu gối nhấp lên nhấp xuống. Cô gái thật hồn nhiên, trẻ thơ. Không phải cô hạnh phúc, chỉ vui mừng. Cô chưa muốn gì, chỉ sống. Tôi nhìn cô gái đầy ngưỡng mộ. Tôi kính cẩn nghiêng mình.


Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2010

"Cá" đã "tôi" thế đấy!

Hôm trước một thằng bạn nhậu gọi điện cho mình hỏi, này, mày viết tôi ta cá nhân cá quả gì trên blog mà tao chẳng hiểu gì cả. Mình cười, bảo, thế à, ai bảo nhậu cho lắm vào, mấy chai rồi. Nó rống lên, nghiêm túc đấy, mày viết lại cái entry đó đi, à, mà rảnh không, ra quán Hồng đi, làm vài choác, tao đang khát khao tự do hai chén ngọt ngào đây. Mình phì cười, chứng tỏ hôm nay mày chưa say, ừ thì ra. Ở chỗ mình có hai quán bia mình hay đến, một của Tàu, một của Hung. Quán Hồng là quán có tên Hongkong, bọn nhậu người Việt gọi tắt thành quán Hồng, để phân biệt với quán Hung kia, tên là Xanh.

Mình ra đến quán thấy thằng bạn đã ngồi phì phèo bên cô bồi bàn người Ucraina. Nó nói gì đó với cô gái, cô ta cười tít mắt. Thấy mình đến, thằng bạn giả vờ nghiêm mặt, nói nhanh với cô ta, thế nhá, mai kể tiếp, rồi quay sang chào mình. Lại chén tạc chén thù hả, mình bắt nọn. Nó cười hê hê, mày lại xuyên tạc tao rồi, không có gì đâu.

Chả là thằng bạn mình, tuy nó mới "nửa chừng xuân", nhưng, như nó thường tự ca ngợi, một mình hai vợ ba con bốn bồ năm chai! Tức là, nó bảo, tao là thằng lãng tử... đa tình! Hồi còn talawas, nó hay "xúi" mình viết những ý nghĩ khá là... độc đáo của nó lên phần PH của talawas, tất nhiên là lấy tên mình. Có lần mình hỏi, sao mày không đăng ký một tên mà viết, tự viết không hay hơn à, hay tay mày giờ chỉ biết nâng cốc, quên mất bấm bàn phím rồi. Nó cười he he, quên làm sao được, cuốn Nhật ký khổ sai tao dịch gần xong rồi đấy, tao không thích phản biện phản thùng, đa nguyên đa đảng gì sất, chỉ thích đa chai đa chén, tức là đa... tình thôi. Một lần nó giải thích, tình là chai là chén, hết tình là quên béng nhau ngay, cụ Khiêm đã nói rồi mà, còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi. Mình nghe xong chỉ biết cười trừ với nó...

Cái câu "chén tạc chén thù" cũng là do nó nghĩ ra với cái nghĩa khác. Hồi mới sang Hung, một hôm nó bảo, này Đức ơi, bọn mình sang Hung đây phải thực hiện chính sách chén tạc chén thù thôi. Mình ngạc nhiên hỏi lại, cái gì, làm cái gì. Nó cười hí hí, tức là uống rượu và tán gái ý, mày củ cà zốt thật, đất Hung đầy rượu ngon và gái đẹp, ôi, những nàng tiên tóc vàng da trắng mắt bồ câu chân dài thuột... Và thế là, nửa thế kỷ qua, thằng bạn của mình đã không "chối bỏ" được cái "chính sách" kể cũng... "có lý" này của nó!

Mình ngồi xuống bên cạnh, hỏi luôn, nào, mày không hiểu ở chỗ nào, mày dịch Nhật ký khổ sai thì phải hiểu Kertész nói gì chứ. Nó phẩy tay, ăn cái gì đã, ê, em ơi, cho tụi anh nồi lẩu nhỉ, lẩu cá. Cô bồi bàn lại cười tít mắt với nó, vâng ạ. Thằng bạn nhìn mình nháy mắt, mày viết cá nhân cá quả, thì hôm nay lẩu cá. Mình gật đầu, ờ, nhưng đừng có mà... "lẩu quả" (phát âm từ "lâu quá" theo tiếng miền Trung) như lần trước đấy nhá. Thằng bạn vừa châm điếu thuốc mới vừa nheo mắt nhìn mình, này, theo tao, cái tôi, cái cá nhân như mày viết, chỉ là một thôi, tức là giả sử, cứ cho là tồn tại cái sự riêng rẽ giữa chúng đi, thì vẫn không thể biểu hiện cùng một lúc được. Mình gật gù, cũng có thể, nhưng dù sao quả đất vẫn cứ quay, he he..., ý tao muốn nói là, vẫn tồn tại hai bản thể riêng rẽ của cái tôi và cái cá nhân, sự biểu hiện cùng một lúc của hai bản thể riêng rẽ này, chúng ta - những cái "ta" thiểu não - không đủ "trình độ" để "thấy" được. Nói xong câu này, mình thấy thằng bạn đột nhiên im lặng sau màn khói thuốc. Nó có vẻ như chìm vào dòng suy nghĩ chợt đến nào đấy của nó. Mình nhìn bâng quơ ra cái bể cá vàng của quán, những con cá vàng ngàn năm câm nín đang lượn lờ trong bể. Mọi sự ở bên ngoài cái bể đối với chúng chẳng là cái quái gì cả, mình nghĩ, cá vàng ơi, có chăng cái tôi của mày. Mình chợt vỗ vai thằng bạn, này, mày biết không, tao vừa thấy cái tôi của mày đấy. Thằng bạn tỉnh hẳn, bậy nào, thấy gì nào. Mình phì cười, ha ha... thì tao thấy cái cá nhân của mày chẳng đang hút thuốc, trong khi cái tôi của mày nghĩ về nàng là gì, đúng không. Nó há hốc mồm chấp nhận, đúng, đúng, thằng này khá, mày nói đúng, vậy mà tao không nghĩ ra, hay, hay...

Buổi nhậu hôm đó hai thằng mình say bí tỉ, mỗi thằng nốc trọn năm chai bia vào ruột,... đúng tiêu chuẩn!

"Cá" đã "tôi" thế đấy!


Thứ Năm, 18 tháng 11, 2010

Cái "tôi" và cái "cá nhân", hay thân phận của "ta"

Hôm trước mình được chị Nh. gửi cho một bài thơ "buồn thấm thía" của chị ấy. Mình đọc xong, thấy cũng buồn thật! Liền viết thư cho chị Nh. như thế này:

Chào chị,

Đọc cái bài chị gửi, em bị ám ảnh mãi, không ngủ được. Có thể là do cái "âm điệu" u ám đau buồn, như chị viết:
"đau buồn là niềm hân hoan duy nhất xác thực, là hạnh phúc duy nhất diễn tả nỗi hài lòng của con người.

Đau mang lại cảm giác duy mỹ hiếm hoi từng ngày. Cái đẹp là sự nâng niu từng nỗi đau phải sống,"

gây ra cũng nên?!


Em có cảm giác là chị đang đánh mất đi cái vô tư yêu đời, cái lạc quan tin tới một tương lai gì đấy, mà những người tuổi rắn như chị em mình thường hay có!

Những bài viết gần đây của chị đã mang đậm hơn những nét buồn, những hơi đau nhân tình thế thái... Em nghiệm ra một điều, là khi càng viết nhiều, nhất là những nhà văn, người ta càng đi gần đến cái thực chất sâu thẳm nhất của sự việc, của vấn đề. Như anh V. chẳng hạn, những bài viết gần đây của anh ấy cũng dường như "toát" ra mạnh mẽ hơn nỗi đau cô đơn của người sáng tác. Phải chăng là anh chị đã đạt được đến cái cần phải đến: sự tha phương hiu quạnh của một kiếp người hiu quạnh!


Em nhớ đến bài thơ chị viết gửi tặng NTC, trong đó có câu:


"Thi sĩ

là kẻ

chưa bao giờ thất lạc giữa quê hương."

Và bây giờ, khi đọc những dòng này của chị:

"cơn mộng du xé nửa giấc trăng tàn

ngơ ngác ngày xuân lá xanh vặt lá xanh trần trụi

đêm phiền muội thắp lửa lòng phiền muội

hơ nóng quạnh hiu bằng một kiếp quạnh hiu."

thì em lại thấy, thi sĩ là kẻ, bao giờ cũng thất lạc giữa quê hương!

Và không những thế, ở đâu trên cái Trần gian lắm này, con người chúng ta cũng đều là những kẻ thất lạc hết trọi! Hahahahahahaha...

Chị có đồng ý với em không?!?!


Và hôm nay, mình lại nhận được lời chia sẻ của bác Trần Quốc Việt trên blog này của mình. Mình bị "choáng váng" bởi câu này của bác ý: "Chúng ta tự nguyện lưu vong mà sao vẫn nặng lòng về quê cũ hở bác"

Mình nói mình bị "choáng váng" là vì câu nói này của bác ý, sao nó "buồn thấm thía" thế không biết! Mà đúng thật, không cứ gì những người lưu vong như bác ý và mình - những người Việt xa xứ, mà ngay cả đối với nhiều người đang sống ở trong nước - những kẻ lưu vong trên chính quê hương xứ sở của mình -, tất cả cũng đều chung một mối nặng lòng với quê hương Việt Nam!

Để hiểu được cái sự "vì sao nên nỗi" này, mình nghĩ có lẽ cần phải quay lại với Kertész Imre. Tức là quay lại với cái TÔI, cái CÁ NHÂN và cái TA, trong các tác phẩm của ông, chính vì thế mà mình đã đặt cái tiêu đề của entry này là "Cái "tôi" và cái "cá nhân", hay thân phận của "ta"". Như mình đã viết ở bài trước, trong con người chúng ta tồn tại hai bản thể của một cái "TA": cái TÔI và cái CÁ NHÂN. Cái "cá nhân" thì có số phận, kiểu như "Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa" Hehe... Còn cái "tôi" thì không số phận. Hai cái "tôi" và "cá nhân" này làm nên cái "ta" của thân phận một con người trong xã hội. Có những "bằng chứng hùng hồn" cho cái thuyết "phân thân" này của KI. Mình chỉ lấy đơn giản làm ví dụ minh họa như trường hợp của ông nhà văn Việt Nam, nhà văn Nguyễn Khải. Nhà văn quá cố này đã viết "Đi tìm cái tôi đã mất". Tức là cái "cá nhân" của ông ta vẫn "sống bình thường" như một người sáng tác văn học, trong khi đó cái "tôi" của ông ta thì bị "đánh mất". Hay nói một cách "văn vẻ" ra là: cái "tôi" của NK luôn luôn bị chính ông ấy "ruồng bỏ", nhưng nó vẫn "vất vưởng" đeo bám ông ấy suốt đời. Hoặc như trường hợp của ông nhà thơ Chế Lan Viên cũng thế, cái "tôi" của ông này biết là "bánh vẽ" đấy, nhưng cái "cá nhân" của ổng, vẫn cứ... ăn! Hehe... Mình chợt nhớ tới câu nói của mẹ: "Ăn cho mau lớn con ơi!". Ôi, Mẹ Việt Nam buồn!

Viết đến đây, mình có thể "trả lời" câu hỏi "Chúng ta tự nguyện lưu vong mà sao vẫn nặng lòng về quê cũ hở bác?" của bác Trần Quốc Việt quí mến như thế này: Có cái "nông nỗi" đó, là bởi vì cái "cá nhân" chúng ta sống lưu vong, còn cái "tôi" của chúng ta thì "nặng lòng" với quê hương đất tổ!

Entry này mình viết với ý định mến tặng bác Trần Quốc Việt, tác giả mình rất quí mến trên talawas.

Thứ Ba, 16 tháng 11, 2010

Lélektelenség, hay tiếng Việt là Không tâm hồn

Hôm nay mình lại đọc được một bài dịch của chị Nhung rất hay, là cái bài này. Ở Hung đã lâu, lại đọc cũng khá nhiều tác phẩm văn học Hung, mình nhận thấy, cùng với nhà văn Kertész Imre, nhiều nhà văn Hung cũng xứng đáng được trao giải Nobel văn chương, tức là mình nghĩ thế! Nhưng không hiểu sao Ủy ban Nobel chỉ trao cho mỗi KI. Trong kho tàng văn học Hungary, có khá nhiều những tác phẩm, có thể nói là ngang tầm với Không số phận. Nhưng không hiểu sao các tác giả của những tác phẩm ấy, lại không được Ủy ban Nobel "đoái hoài" tới. Thậm chí, trong danh sách ứng cử viên hàng năm cũng thật "hãn hữu". Chẳng lẽ những nhân vật trong Ủy ban không có mắt? Hoặc vì tiếng Hung Gia Lợi quá khó đối với họ? Nhiều nhà văn nổi tiếng trên thế giới cũng phải công nhận là nền văn học Hungary không nhất thì nhì trên văn đàn quốc tế! Vậy thì?

Nói lan man vậy thôi, chứ mình biết thừa là cái giá trị của một tác phẩm, không phải là nó có đoạt giải Nobel hay không, mà là nó có để lại cho nền văn hóa nhân loại một cái gì "đáng giá" hay không! Đây mới chính là điều cần nói tới, mỗi khi người ta muốn "nhận định" tác phẩm. Chẳng hạn như cuốn "Chiến tranh và Hòa bình" của Lev Nikolayevich Tolstoy, một tác phẩm mà, có thể gọi là vĩ đại nhất trong nền văn học của nhân loại. Nếu có một sinh vật khác nào đó, UFO chẳng hạn, từ "phía bên kia" của vũ trụ đến Trái Đất của chúng ta để "tìm hiểu" về loài người chúng ta, thì theo mình, đơn giản nhất và nhanh chóng nhất, là sinh vật ấy (với đôi mắt có kích thước to hơn của chúng ta!) hãy đọc "Chiến tranh và Hòa bình" bằng nguyên bản tiếng Nga là sẽ hiểu hết ngay lịch sử loài người! Dĩ nhiên, nếu các vị "UFO" không biết tiếng Nga, thì có thể đọc bằng tiếng Hungary, nếu các vị ấy muốn! Bởi vì như người Hung thường nói với mình, có vẻ như người Hung là những cư dân đến từ Sao Hỏa!!! Hehe... Tức là mọi sinh vật đến từ hành tinh khác, đều là dân Hungary!!!

Mình nói đến KI, bởi vì ông nhà văn này, có thể nói là, hoàn toàn... chinh phục mình! Đọc các tác phẩm của KI, mình luôn luôn có một cảm giác là, ông nhà văn này dường như không bao giờ để ý đến cái "thực tại" bao quanh mình. Những gì ông nói đến, dường như không có thực trên cuộc đời này?! Nó có vẻ như một giấc chiêm bao thật khủng khiếp, nhưng rốt cuộc, chỉ là một giấc chiêm bao, cuộc đời thực vẫn "khác", vẫn "không là thế"! Nhưng tuy vậy, mình vẫn cảm nhận được một tư tưởng rất "thực" bao trùm lên các tác phẩm của ông. Đó là câu hỏi, tại sao TA tồn tại? Có phải TA chính là TA, hay TA là một KẺ KHÁC?

Cái sâu xa của "Không số phận" chính là ở điều này? Nhiều nhà phê bình văn học của Hungary cũng đã phát hiện ra mối tương quan giữa "cá nhân" và cái "tôi" riêng rẽ của con người. KI đã giải nghĩa rất cặn kẽ sự khác nhau này trong các tác phẩm của mình. Tức là ý mình muốn nói là, theo KI, cá nhân con người thì có "số phận", nhưng cái "tôi" của chính con người đó, thì lại không có số phận. Cái TÔI có thể trở thành rất vĩ đại, trở thành nổi tiếng, cũng có thể trở thành "vô tích sự", vô nghĩa! Ngược lại, CÁ NHÂN con người, cùng lắm, thì chỉ có thể trở thành một thành phần "có ích" cho xã hội. Đây là một giá trị của sự nghiệp văn chương của KI. Ông đã đem lại một cái nhìn mới cho những nhà nghiên cứu văn học sử. Không phải cứ đáng giá về mặt nghệ thuật, về mặt ý nghĩa nhân sinh quan một tác phẩm văn học, là "xong" đâu, mà cả về ý nghĩa của cái TÔI, cái riêng tư, cái bao trùm lên một thân phận nhà văn nữa!

Mình nhớ đến tác phẩm "Một kẻ khác"(Valaki más) của KI. Hoặc như tác phẩm "tự vấn", K. dosszié, của ông. Các tác phẩm này, giá như mà chúng được dịch sang tiếng Việt nhỉ! Dĩ nhiên là phải dịch thật hay cơ, chứ còn dịch như một cái lão nào đó, mà không biết là lão đó (giục) dịch hay (rục) rịch, thì chán chết! Mình đã có lần khuyên chân tình lão ta là hãy chỉ viết luận văn tiến sĩ (diện) thôi, đừng dính đến văn chương mà làm gì, tội nghiệp lắm! Nhưng có vẻ như lão ấy, nặng tai, hơi khó nghe, thì phải?!

Nói đến đây thì mình phải nói "toạc móng heo" ra luôn, tức là có những con người, không những họ không có cái "TÔI" quí báu như đã nói ở trên, mà còn ngay cả cái TÂM HỒN của họ cũng... KHÔNG CÓ! Như cái trường hợp của cái lão dịch giả mà mình đã nói ở trên!

Phải chăng cái sự này, KI sẽ gọi là LÉLEKTELENSÉG, hay nói tiếng Việt trong sáng của mình là, KHÔNG TÂM HỒN?!

Có thể lắm! Bởi dường như nhân loại đang dần dần đánh mất đi tâm hồn của mình! Thế giới giờ đây, chỉ còn lại đầy rẫy sự... vô cảm!

Chát với Chúa! (4)

Hôm trước mình đọc được cái bài này ở trên mạng, thấy hay hay. Hôm nay mình liền "lên đường" đi gặp Chúa, cũng là "Chat" với "Chúa" để làm "hồi" tiếp theo của trường thiên "tiểu thuyết chat":

tôi: Dạ thưa Chúa, hôm trước con có đọc được bài báo nói về một phát ngôn của đứa con của ngài, Đức Giáo hoàng Benedict XVI, con thấy có nhiều điểm chưa được rõ lắm. Vậy hôm nay, con xin hỏi thẳng ngài, có được không ạ?

Chúa: Ờ, chào con Trương Đức. Hôm nay thế nào mà "tôm lại đến nhà rồng" thế này? À, con có thắc mắc hả, sao con không hỏi Đức Giáo Hoàng ý? Hỏi ta làm gì? Thì giờ của con đã ít ỏi, chưa kể đường xá xa xôi, xăng dầu đắt đỏ...

tôi: Vâng, kính thưa Chúa! Thì con cũng định sang Vatican đấy. Nhưng thiết nghĩ, bọn người trần gian lắm của chúng con thường hay nói: "tam sao thất bản", nên con mới muốn gặp thẳng Chúa để hỏi cho chắc. Tuy lời Đức Giáo hoàng cũng là lời Chúa cả thôi, nhưng dù sao, nghe từ miệng Chúa nói ra thì vẫn cảm thấy yên tâm hơn ạ!

Chúa: Ờ, con nói nghe cũng có lý. Bọn người trần gian lắm của các con, kể cũng hay nói lung tung thật. Các con đang còn trong u mê lắm, không biết đâu là ánh sáng, không biết đâu là sự thật. Con không quản đường xá xa xôi hiểm trở, lên tận đây chat với ta là con khôn ngoan và tận tâm tận lực lắm! Thôi được rồi, ta cũng vui lòng chat với con vậy, cho bõ cái công con bỏ ra. Nào, con hỏi đi!

tôi: Vâng, con chỉ xin hỏi Chúa một câu thôi ạ! Đó là, tại sao Đức Giáo hoàng lại nói internet làm tê liệt trí óc của con người, khi mà mọi sự có trên cái trần gian lắm này, kể cả internet, cũng đều do bàn tay của Đấng Tạo Hóa, của Chúa, nặn nên? Đức Giáo hoàng nói như vậy, thế hóa ra, Chúa lại "tự mâu thuẫn" với mình à?! Chúa đã tạo ra một thứ sinh vật tuyệt vời có tên là "loài người trần gian lắm" với bộ óc hơn hẳn những loài sinh vật còn lại, song Ngài lại chế ra internet có tác hại làm tê liệt trí óc của cái sản phẩm kỳ diệu ấy?!

Chúa: Ái chà, con hỏi "hắc búa" ghê nhỉ! Có câu hỏi nào dễ hơn không? Bây giờ ta đã hiểu ra là, tại sao con lại lên đây hỏi thẳng ta, câu hỏi này của con, đối với Đức Giáo hoàng cũng là rất khó rồi! Nhưng không sao, ta sẽ trả lời theo khả năng của ta. Là loài sinh vật có trí óc, con người các con cần luôn luôn phải hỏi. Còn nhỏ thì hỏi cha mẹ, lớn lên đi học thì hỏi thầy cô giáo. Già chút nữa thì tự hỏi bản thân. Và cuối cùng, khi nào bí quá thì hỏi... ta. Bởi vì chính ta đây cũng vậy thôi! Nhiều khi ta cũng gặp phải những câu hỏi khó mà tự bản thân ta không thể trả lời được. Chẳng hạn như câu hỏi hôm nay của con...

tôi: Tức là Chúa không trả lời được cho con à?...

Chúa: Không phải thế! Mà ý ta muốn nói là nó thuộc những câu hỏi khó mà ta chưa tìm ra lời giải đáp thỏa đáng cho nó. Ta có rất nhiều những câu hỏi không lời giải đáp. Chẳng hạn như câu hỏi này: ta là gì? Mà các con, loài người trần gian lắm, cũng có cái câu hỏi tương tự đấy. Hơn chín năm qua, bọn các con chẳng hỏi nhau suốt ngày: talawas? đấy là gì!

tôi: Vâng, nhưng đấy là chuyện của chị Hoài và chuyện của những kẻ trần gian lắm chúng con. Con rất muốn Chúa hãy cho con biết ý kiến của chính Ngài là gì ạ?

Chúa: Có lẽ con phải đọc lại Kinh Thánh một lần nữa! Ta đã dạy rất nhiều điều về lẽ sống ở trần gian lắm cho các con ở trong đó. Một trong những điều quan trọng nhất là hãy sống bằng sự thật và tình thương yêu lẫn nhau. Tức là đừng giả dối. Sự giả dối sinh ra thù hận, và từ đó, làm tê liệt trí óc các con. Ta sinh ra sự sống ở dưới trần gian lắm cho các con, với một mong muốn là các con phải biết tự tìm đến tình thương yêu của ta. Đến được tình thương yêu của ta, coi như là các con tự trả lời cho câu hỏi muôn đời ta là gì? của mình! Mà, điều kiện duy nhất của cái sự này, chính là các con phải sống với nhau bằng sự thật, tức là không được giả dối với nhau. Nhưng...

tôi: Vâng, con hiểu ý Chúa. Loài người trần gian lắm chúng con bao đời nay đã sống trong giả dối. Sự giả dối ngự trị chúng con như thể là một hình phạt cho chúng con. Nguồn gốc của chiến tranh, của chết chóc, đau thương, của bất hạnh, tủi hổ, của mọi sự khốn khổ khốn nạn... đều chính là sự giả dối. Nhưng tại sao? Tại sao Chúa không cứu rỗi chúng con?

Chúa: Ta vẫn thường cứu giúp các con đấy chứ! Từ xa xưa, ta đã để cho cha mẹ của các con là adam eva, được tự do lựa chọn để chung sống với nhau. Họ sống trong sự thật và tình thương yêu lẫn nhau, đấy cũng chính là tình thương yêu của ta, nhưng họ đã bị sự giả dối đánh gục, họ sa ngã vào những dục vọng giả dối, trí óc của họ bị tê liệt từ đấy, và đã phải bị xuống trần gian lắm để sống tiếp. Nhưng ta luôn luôn bên các con, ta luôn luôn chìa bàn tay ra để nâng các con ra khỏi vũng lầy của sự giả dối! Cái chính là các con vẫn mải u mê trong vũng lầy giả dối ấy, không đứa nào chịu đưa tay ra cho ta nắm! Làm sao ta có thể nắm được cả cái toàn thân nhầy nhụa bùn đen giả dối của các con được!

tôi: Có phải chúng con không chìa được tay mình ra cho Chúa nắm là do chúng con dường như đang bị tê liệt?

Chúa: Đúng vậy! Mà không chỉ chân tay các con đang bị tê liệt nặng, trí óc của các con cũng đang dần dần tê liệt theo! Benedict con ta nói rằng, internet làm tê liệt trí óc con người, cũng là cái ý này đấy. Internet là mạng ảo. Mà đã ảo thì thường dễ bị hiểu lầm là giả dối. Benedict muốn nói cái sự ảo, cái sự giả này của internet đấy! Nếu các con của ta cứ chìm ngập mãi vào cái sự ảo này của internet, thì trí óc của các con đến một ngày nào đó sẽ bị tê liệt hoàn toàn, sẽ không còn biết đến tình thương yêu của ta, sẽ không tìm được về ngôi nhà thân yêu của chúng ta - cõi Thiên đàng - nữa!

tôi: Vậy chúng con phải làm gì bây giờ, thưa Chúa?

Chúa: Hà hà...! Dễ ợt! Các con đừng cắm cúi suốt ngày trước màn hình máy tính nữa! Hãy chạy ra ngoài trời đi, hãy tắm ánh nắng ấm áp đầy tình thương yêu của ta đi! Đừng giả dối nữa! Hãy nói thật với nhau! Đi đi các con...

tôi: Vâng, con đi đây... À, nhưng để con đăng bài này lên blog đã...